Sau 12 năm thực hiện, Luật Khoa học và Công nghệ (KH-CN) đã bộc lộ một số điểm không còn phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về KH-CN trong giai đoạn hiện nay.
											Thực tế ấy đòi hỏi cần phải sửa đổi  luật, tạo đà cho hoạt động KH-CN có bước phát triển mới. Với vị trí là  đạo luật cơ bản về lĩnh vực KH-CN, Luật KH-CN nhằm thể chế hóa những  quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển KH-CN phục vụ  mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Vì vậy Luật KH-CN sửa đổi sẽ tập trung  giải quyết 3 vấn đề lớn gồm:  Phương thức đầu tư; Cơ chế tài chính và cơ chế đãi ngộ trọng dụng nhân  tài. Trong đó, cơ chế đãi ngộ trọng dụng nhân tài là một trong những vấn  đề quan trọng được quan tâm.
Nhân dịp này, Báo Đất Việt phối hợp với  Trung tâm nghiên cứu và phát triển truyền thông Khoa học Công nghệ - Bộ  Khoa học Công nghệ tổ chức buổi giao lưu trực tuyến trên báo Đất Việt  Online với chủ để: “Đào tạo, sử dụng nhân lực, bồi dưỡng, trọng dụng   nhân tài về khoa học và công nghệ” vào lúc 9h00-11h00 ngày 8/5/2013 tại  báo Đất Việt số 3/C11, Ngõ 17, Hoàng Ngọc Phách, Đống Đa, Hà Nội
Tất cả những vấn đề trên được trao đổi,  thảo luận trong buổi giao lưu sẽ cung cấp thêm thông tin toàn diện về  việc phát triển nguồn nhân lực cho khoa học công nghệ trước khi Luật  KH-CN được “ấn nút” thông qua tại kì họp thứ 4 Quốc hội khóa XIII.
Khách mời tham dự gồm:
1. Ông Đỗ Việt Trung, Phó Vụ trưởng Vụ TCCB, Bộ KH-CN
2. PGS, TS. Trần Xuân Hồng, Viện trưởng Viện UDCN, Bộ KH-CN.
3. PGS, TS. Lê Quân, Trưởng ban TCCB-ĐHQG Hà Nội
4.TS. Đỗ Tuấn Đạt, Giám đốc Công ty Vacxin và Sinh phẩm số 1
Dưới đây là toàn bộ nội dung buổi giao lưu.
 
    
        
              | 
        
        
            | Các vị khách mời đã có mặt tại tòa soạn để sẵn sàng giao lưu với độc giả. (Ảnh: Minh Tú) | 
        
    
-Hiện các nhà khoa học đang bày tỏ sự nản chí, không say mê nghiên  cứu. Các trường đại học chọn việc nghiên cứu như một hình thức để cho  có, như vậy chất lượng sẽ không thể đảm bảo? Theo ông vì sao có tình  trạng này?
PGS. TS. Lê Quân: Tôi  cho rằng có hai nguyên nhân cơ bản của tình trạng giảng viên tại trường  Đại học không say mê và tích cực nghiên cứu khoa học:
Thứ nhất, từ năng lực của giảng viên.  Thực tế đã chỉ ra, trường đại học nào chú trọng tuyển dụng, đào tạo bồi  dưỡng giảng viên về năng lực nghiên cứu khoa học thì hoạt động nghiên  cứu khoa học sẽ đi vào nề nếp. Ví dụ tại ĐHQG HN, với gần 1000 tiến sĩ,  trong đó quá nửa là đào tạo ở nước ngoài về, nghiên cứu khoa học trở  thành nhu cầu và đòi hỏi cấp thiết của đa phần giảng viên.
Thứ hai, từ động lực của mỗi giảng viên  tham gia nghiên cứu khoa học. Khi nghiên cứu khoa học chưa mang lại thu  nhập đảm bảo cuộc sống, giảng viên sẽ dành thời gian nhiều hơn cho giảng  dạy và các công việc khác có thu nhập cao hơn. Tại các nước phát triển,  giảng viên đại học có thu nhập cao và có số giờ giảng định mức ít, khi  đó họ phải và có thể dành nhiều thời gian hơn cho nghiên cứu khoa học.  Điều này chưa hẳn đúng tại Việt Nam.
Cá nhân tôi cho rằng nguyên nhân thứ  nhất quan trọng hơn. Theo quan sát của tôi, những giảng viên có năng lực  nghiên cứu khoa học đang có thu nhập tăng nhanh. Khi xã hội hướng đến  đãi ngộ nhà khoa học theo sản phẩm đầu ra, thì thu nhập của người làm  nghiên cứu phụ thuộc rất lớn vào năng lực của họ.
- Thưa TS Trần Xuân Hồng! Muốn phát  triển được KH-CN phải có con người, nhưng thực tế các đơn vị nghiên cứu  hiện nay rất khó để thu hút những người trẻ dấn thân vào con đường khoa  học (do lương thấp, đãi ngộ ít, trong khi họ đi làm kinh tế nhiều tiền  hơn) vậy Bộ KH-CN có cách gì để thu hút những người trẻ vào nghiên cứu?
TS Trần Xuân Hồng: Thực  tế hiện nay đúng là rất khó thu hút lực lượng trẻ vì những lý do đãi  ngộ, thu nhập thấp và lớp trẻ cũng muốn có cơ hội thăng tiến. Một điều  quan trọng nữa là đầu tư cơ sở vật chất cho ngành KH-CN còn thấp nên  những người vào làm việc trong ngành này còn khó khăn. Chính vì thế  không phát triển được tính sáng tạo của họ.
Đối với vấn đề này Bộ KH-CN đã có xây  dựng chủ trương chính sách đãi ngộ tôn vinh các nhà khoa học và đầu tư  phát triển các Viện nghiên cứu. Đây là việc làm cần thiết nhưng đòi hỏi  thời gian và sự đồng thuận của các cấp bằng các chính sách đầu tư cho  KH-CN.
Vừa qua trong Dự thảo Luật  KH-CN sửa  đổi, Bộ KH-CN cũng đã đề xuất những chủ trương để cải thiện việc này với  những hy vọng có chính sách hợp với thực tế và mong muốn của giới khoa  học. Hy vọng điều này sẽ được thực hiện. Ngoài ra, chính sách đào tạo  cũng như việc chú trọng tìm nguồn, huy động các nguồn đầu tư để tạo điều  kiện cho lớp trẻ ngay từ trong trường đại học có thể tham gia công tác  nghiên cứu.
Điều này được thể hiện bằng sự công nhận  các trường đại học vừa là cơ sở đào tạo vừa là cơ sở nghiên cứu, có bổ  sung biên chế nghiên cứu cho các trường đại học. Đây là những biện pháp  cụ thể để thu hút lớp trẻ tham gia vào hoạt động nghiên cứu khoa học.
-Việc bố trí ngân sách cho các đề  tài của Viện ông có gặp khó khăn gì? Có khi nào đề tài/dự án xây dựng mà  không thể triển khai do chậm ngân sách không thưa ông Trần Xuân Hồng?
TS Trần Xuân Hồng: Thực  trạng hiện nay thủ tục để bố trí ngân sách cho các nhiệm vụ nghiên cứu  không chỉ đối với Viện tôi mà cả các cơ quan nghiên cứu KH-CN còn nhiều  bất cập: kinh phí không đủ để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu lớn,  thủ tục phức tạp, tiến trình cấp phát cứng nhắc.
Để có thể bố trí được kinh phí nghiên  cứu cho năm sau các nhà khoa học phải xây dựng ý tưởng và hoàn thành các  thủ tục chậm nhất từ tháng 7 năm trước. Trong lúc đó hoạt động nghiên  cứu ứng dụng lại phát sinh do yêu cầu thực tế và có những chuyện cấp  thiết cũng khó có thể bố trí được kinh phí ngay khi cần. Có thể hình  dung cách quản lý cấp phát kinh phí cho hoạt động nghiên cứu hiện tại  giống như quản lý kinh phí phục vụ cho xây dựng cơ bản.  
Thời điểm cấp kinh phí để thực hiện  thường là đến tháng 4 hoặc tháng 5 hàng năm kinh phí mới đến được tay  người làm nghiên cứu. Nhưng có nhiều nhiệm vụ đến tháng 11 đã phải làm  thủ tục để chuẩn bị nghiệm thu. Điều này ảnh hưởng lớn đến kết quả  nghiên cứu.
Như vậy thời gian để các nhà khoa học  thực hiện các thao tác nghiên cứu bị gò bó bởi cách quản lý hiện nay. Vì  kinh phí nghiên cứu khoa học vẫn quản lý theo kiểu phải quyết toán hàng  năm mà không theo thực tế nhiệm vụ nghiên cứu.
Cách quản lý kiểu hành chính đôi khi  khiến cho những ý tưởng sáng tạo hạn chế bởi vì từ khi có ý tưởng đến  khi có kinh phí để thực hiện tính thời sự đã không còn. Thực tế cũng đã  có rất nhiều đề tài, dự án sau khi hoàn tất thủ tục để cấp kinh phí đến  khi thực hiện thì không được nữa bởi vì yêu cầu thực tế đã thay đổi.
- Thưa ông Đỗ Tuấn Đạt! Ông có thể  cho biết những thành tựu nổi bật trong nghiên cứu khoa học của công ty  trong thời gian vừa qua, cũng như những kinh nghiệm mà công ty đã thực  hiện nhằm thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học?
TS. Đỗ Tuấn Đạt: Toàn bộ 04 sản phẩm hiện nay công ty  đang kinh doanh đều là kết quả của những đề tài nghiên cứu khoa học của  công ty. Như là vắc xin viêm gan B, vắc xin viêm gan A, vắc  xin tả  uống, vắc xin viêm não Nhật Bản. Hiện các đề tài nghiên cứu khoa học  khác cũng đang sắp cho ra đời những sản phẩm mới như là vắc xin cúm  A/H5N1, A/H1N1, HiB cộng hợp, vắc xin dại trên nuôi cấy tế bào...
Một số kinh nghiệm công ty đã thực hiện nhằm thúc đẩy hoạt động nghiên  cứu khoa học: Tìm hướng nghiên cứu đưa đến những sản phẩm thực tế phục  vụ cho cộng đồng, đề xuất với các Bộ như Bộ KH-CN, Bộ Y tế xin các đề  tài nghiên cứu khoa học các cấp; hướng đến các sản phẩm có nhu cầu cao  trong cộng đồng...
-Một trong những thành công mà nhiều  doanh nghiệp có được chính là nhờ sử dụng và đãi ngộ tốt cán bộ nghiên  cứu. Vậy doanh nghiệp của ông đã thực hiện việc sử dụng và đãi ngộ người  nghiên cứu như thế nào? Kết quả ra sao?
 
    
        
              | 
        
        
            | TS Đỗ Tuấn Đạt trả lời độc giả tại buổi giao lưu. (Ảnh: Minh Tú) | 
        
    
TS. Đỗ Tuấn Đạt: Thứ  nhất, công ty luôn xác định doanh nghiệp là một cơ sở để đào tạo. Do các  hoạt động trong doanh nghiệp đều mang tính chất chuyên môn đặc thù nên  các cán bộ khi vào làm trong doanh nghiệp đều cần phải có đào tạo chuyên  biệt. Các cán bộ sau khi được đào tạo sẽ được đãi ngộ cũng như có hướng  để qui hoạch đến những vị trí chủ chốt của công ty.
Thứ hai, hướng đến cho cán bộ tự định ra các hướng nghiên cứu từ đó có  thể làm chủ nhiệm các đề tài nghiên cứu khoa học các cấp. Từ đó có những  kinh nghiệm để quản lý công tác khoa học cũng như quản lý các bộ phận  sản xuất trong công ty.
Thứ ba, đối với các cán bộ khoa học có nhiều kinh nghiệm, sau khi nghỉ  hưu công ty luôn giữ lại làm cố vấn cho các hoạt động khoa học của công  ty, tận dụng các nguồn chất xám và các kinh nghiệm của các cán bộ này  cho công tác nghiên cứu khoa học.
Kết quả công ty luôn duy trì được đội ngũ các cán bộ nghiên cứu bền  vững, các cán bộ này hiện nắm nhiều vị trí quản lý chủ chốt trong công  ty. Các cán bộ nghiên cứu khoa học có kinh nghiệm hiện làm chủ nhiệm  nhiều đề tài nghiên cứu khoa học các cấp và tạo ra nhiều sản phẩm mới  phục vụ cho công tác kinh doanh của công ty.
-Công ty ông được đánh giá là đơn vị tích cực trong việc ứng dụng  công nghệ tiên tiến, xin ông có thể cho biết quan điểm của công ty về  vấn đề này như thế nào?
TS. Đỗ Tuấn Đạt! Tiếp cận các công nghệ tiên tiến sẽ  giúp tiết kiệm, giảm giá thành, tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh  cao. Ứng dụng các công nghệ tiên tiến cũng giúp cho ra đời nhanh các sản  phẩm đáp ứng các nhu cầu cấp thiết của cộng đồng.
Tuy nhiên, hiện nay để có thể tìm ra được các công nghệ tiên tiến và cập  nhật cũng rất khó khăn do mức độ cạnh tranh cao của các hãng sản xuất  lớn trên thế giới. Đồng thời, luôn cần có một đội ngũ cán bộ khoa học có  trình độ cao mới có thể tiếp cận nhanh nhất các công nghệ này.
- Thưa ông Hồng! Ông có thể biết các đề tài sau nghiên cứu của Viện  nghiên cứu ứng dụng của Bộ KH-CN được sử dụng như thế nào thưa ông?
TS Trần Xuân Hồng:   Chức năng của Viện tôi là nghiên cứu ứng dụng cho nên các kết quả sau  nghiên cứu của Viện đều được đưa vào thực tế áp dụng. Điều này thực hiện  được là nhờ khi xây dựng ý tưởng nghiên cứu đều xuất phát từ yêu cầu  của thực tế cuộc sống.
Tuy nhiên việc áp dụng vào thực tế cũng  còn có những khó khăn. Không phải tất cả các nội dung nghiên cứu đều đáp  ứng hết được yêu cầu của thực tế và chế tài để các doanh nghiệp áp dụng  các kết quả nghiên cứu hiện nay cũng không có. Vấn đề này liên quan đến  cơ chế đặt hàng của nhà nước, các ngành, doanh nghiệp tới các nhà  nghiên cứu. Hiện nay các nội dung nghiên cứu đều do các nhà khoa học,  quản lý các cơ quan nghiên cứu xây dựng lên theo khảo sát thực tế và ý  kiến chủ quan cũng như năng lực hiện tại.
Còn việc đặt hàng từ nhà nước hay doanh  nghiệp còn rất hạn chế. Do đó việc các kết quả nghiên cứu đi được vào  thực tế chủ yếu là do nỗ lực của các nhà nghiên cứu (đó là sự cố gắng,  tận dụng các mối quan hệ). Điều này đôi khi khiến kết quả nghiên cứu tốt  nhưng lại không đáp ứng được yêu cầu gắn kết với thực tế.
Những khó khăn này sẽ được cải thiện nếu Dự thảo Luật KH-CN sửa đổi  được thông qua. Trong Luật có các điều luật liên quan đến trách nhiệm  đặt hàng của các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp đồng thời quy trách  nhiệm của cơ quan chủ trì nghiên cứu đối với các kết quả.
- Vốn là vấn đề sống còn đối với các  doanh nghiệp tư nhân nếu muốn đầu tư vào lĩnh vực KH-CN. Thời gian tới,  đề án mới có những chính sách thay đổi nào cho phù hợp với tình hình  hiện tại không thưa ông? Đặc biệt trong thời điểm khó khăn như hiện nay?
TS. Đỗ Tuấn Đạt: Thứ nhất, Nhà nước nên có cơ chế hỗ  trợ vay vốn cho các DN muốn đầu tư vào lĩnh vực KH-CN: tiếp cận nguồn  vốn, cho vay với lãi suất ưu đãi...
Thứ hai, cần cho các DN kể cả các DN tư  nhân tham gia vào các đề tài và dự án nghiên cứu cấp Nhà nước nếu mục  tiêu của các đề tài và dự án này đáp ứng được mục tiêu chung về định  hướng nghiên cứu khoa học của Nhà nước. Từ đó, các DN có thể tiếp cận  nguồn vốn của ngân sách Nhà nước phục vụ cho KH-CN.
Thứ ba, DN có các qũy phát triển khoa học công nghệ cần được ưu đãi  về thuế khi sử dụng nguồn vốn này đầu tư mua máy móc, thiết bị vật tư,  xây dựng cơ bản...
    
        
            | 
               
            Nhà  nước nên có cơ chế hỗ trợ vay vốn cho các DN muốn đầu tư vào lĩnh vực  KH-CN: tiếp cận nguồn vốn, cho vay với lãi suất ưu đãi... 
             | 
        
        
        
    
- Thưa ông Lê Quân!  Nhiều nhà khoa  học cho rằng, chính sách mà chúng ta đang áp dụng cho những người làm  công tác nghiên cứu khoa học ở đơn vị hành chính sự nghiệp chưa phù hợp  với lao động sáng tạo, trong đó có chế độ tuyển dụng, chế độ lương bổng,  sắp xếp và bố trí công việc. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?
PGS. TS. Lê Quân: Tôi  đồng ý với nhận định này. Tuy nhiên, nó chưa hẳn đúng với từng đơn vị cụ  thể bởi hiện cũng có nhiều đơn vị sự nghiệp đang tiên phong đổi mới  trong hoạt động quản trị nhân lực. Ví dụ, cũng là đơn vị sự nghiệp công  lập, nhưng một số đơn vị thuộc ĐHQG HN và ĐHQG TP. HCM, hoạt động theo  cơ chế tự chủ toàn bộ hoặc một phần kinh phí hoạt động thường xuyên, cơ  chế quản lý được đánh giá khá thuận lợi cho nhà khoa học.
Quan điểm cá nhân tôi thì lại cho rằng  hiện hành lang pháp lý cho các đơn vị nghiên cứu khoa học, sự nghiệp như  Nghị định 115, Nghị định 43 cũng đã khá thuận lợi. Bên cạnh đó, cũng  nên thẳng thắn nhìn nhận việc thực hiện tốt tuyển dụng, đãi ngộ, bố trí  sử dụng chưa tốt nếu có thì nguyên nhân quan trọng hơn có lẽ là con  người, chứ không hẳn chỉ do chính sách.
    
        
              | 
        
        
            | PGS. TS Lê Quân đang trả lời câu hỏi của độc giả. (Ảnh: Minh Tú) | 
        
    
-Hiện nay còn nhiều nhà khoa học trẻ  sau khi học ở nước ngoài không muốn về nước làm việc. Điều đó có phải  do chính sách đãi ngộ còn nhiều bất cập, khiến các nhà khoa học chưa  phát huy hết khả năng và sự sáng tạo của mình, thưa ông Quân?
PGS. TS. Lê Quân:  Có  rất nhiều nguyên nhân mà trong đó có hai nguyên nhân lớn là thiếu điều  kiện trang thiết bị làm việc và thiếu cơ chế, nguồn lực triển khai đãi  ngộ tài chính và phi tài chính.
Nguyên nhân thứ nhất thì quá rõ, muốn  thu hút được người có trình độ, ngân sách đầu tư trang thiết bị phục vụ  nghiên cứu thường cao gấp nhiều lần tiền lương trả cho nhà khoa học. Nhà  khoa học khi ở lại nước ngoài, họ có điều kiện để triển khai các ý  tưởng nghiên cứu.
Nguyên nhân thứ hai là thu nhập và môi  trường làm việc, chưa đáp ứng yêu cầu. Về thu nhập, theo các chế độ hiện  hành, nhà khoa học trẻ thường có thu nhập rất thấp. Năm năm đầu sau khi  về nước tiền lương thấp (khởi đầu thang bảng lương nhà nước), lại ít có  cơ hội có các đề án, đề tài, dự án để tăng thêm thu nhập. Bên cạnh đó,  môi trường làm việc cũng rất quan trọng. Cách quản lý các nhà khoa học  mang tính hành chính, sẽ khó thu hút được nhà khoa học trẻ, đang quen  tác phong làm việc ở nước ngoài.
-Thưa TS Trần Xuân Hồng!  Ông có nghĩ rằng, Dự thảo Luật KH-CN sửa đổi lần này sẽ tạo bước đột phá trong khoa học công nghệ?
TS Trần Xuân Hồng: Tôi  tin rằng Dự thảo Luật KH-CN sửa đổi lần này sẽ tạo ra bước đột phá vì  các nội dung sửa đổi đang tập trung vào để đáp ứng các yêu cầu quản lý  hoạt động KH-CN của ngành. Tập trung giải quyết các vấn đề quan trọng,  cấp thiết hiện nay như:
- Vấn đề phát triển nguồn nhân lực (chế độ đãi ngộ, vinh danh...)
- Xác định và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ KH-CN cũng như việc đẩy mạnh ứng dụng các kết quả nghiên cứu.
- Cơ chế tài chính (cơ chế cấp phát, đa  dạng hoá nguồn vốn, đưa ra những hình thức quản lý kinh phí nghiên cứu  thông qua các quỹ...
-Vậy theo ông, việc đấu thầu đề tài/dự án nghiên cứu hiện nay đã thực sự minh bạch, tìm đúng người, đúng việc? 
TS Trần Xuân Hồng: Bản  chất của cơ chế đấu thầu là minh bạch và xác định được đúng người để  giao đúng việc. Tuy nhiên chất lượng của các hội đồng đấu thầu các nhiệm  vụ KH-CN ảnh hưởng rất lớn đến việc minh bạch và đúng người đúng việc  hay không.
Hiện nay việc đề xuất thành phần hội  đồng do các cơ quan quản lý nhà nước đề xuất. Theo tôi vẫn còn thiếu cơ  sở dữ liệu các chuyên gia đủ năng lực chuyên môn sâu để tham gia vào các  hội đồng. Thiếu các chế độ ưu đãi để gắn trách nhiệm các thành viên  tham gia hội đồng. Cho nên đôi khi vẫn còn có hiện tượng thiên vị, qua  loa trong việc xét thầu.
Việc này cũng đã được tính đến và đưa vào nội dung của Dự thảo Luật KH-CN sửa đổi.
    
        
              | 
        
        
            | TS Trần Xuân Hồng. (Ảnh: Minh Tú) | 
        
    
-Trong những năm qua, Công ty ông đã  đầu tư như thế nào cho nghiên cứu KH-CN? Đâu là khó khăn lớn nhất khi  thực hiện vấn đề này thưa ông Đạt?
TS. Đỗ Tuấn Đạt: Công ty chúng tôi đã chủ động đàm  phán, đầu tư mua các bản quyền công nghệ tiên tiến phát triển các vắc  xin mới như vắc xin sốt xuất huyết, viêm não Nhật Bản trên tế bào, phòng  ung thư cổ tử cung...Để từ đó có thể tiếp cận được các công nghệ sản  xuất vắc xin hiện đại nhất trên thế giới hiện nay.
Thứ hai, công ty đã có phòng nghiên cứu  phát triển với đội ngũ các cán bộ khoa học có trình độ tự làm chủ công  nghệ từ đó cho ra đời nhiều sản phẩm mới, phục vụ cho công tác kinh  doanh của công ty. Các sản phẩm này hiện sắp được đăng kí lưu hành và hi  vọng trong thời gian tới sẽ là các sản phẩm kinh doanh chủ lực của công  ty.
Khó khăn lớn nhất của công ty là phải đầu tư vốn cho việc mua các bản  quyền công nghệ. Nguồn vốn đầu tư ngay lập tức nhưng việc thu hồi vốn  lại phải kéo dài, do đó làm khó cho nguồn vốn chung của DN.
-Thưa ông Đỗ Việt Trung! Ông có thể cho biết một số nét chính về thực trạng phát triển nhân lực ngành KH-CN hiện nay?
Ông Đỗ Việt Trung: Đánh giá chung về thực trạng phát triển nhân lực khoa học công nghệ hiện nay có thể nêu rất khái quát như sau:
1.Về một số kết quả đã đạt được:
- Có sự tăng trưởng về quy mô, số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ  khoa học và công nghệ. Trong thời gian vừa qua Đảng và nhà nước đã ban  hành nhiều chính sách đổi mới cho hoạt động KH-CN tạo điều kiện phát  triển nguồn nhân lực KH-CN. So với năm 1996, năm bắt đầu triển khai Nghị  quyết Trung ương II về KH-CN, tính đến năm 2011, số lượng các tổ chức  KH-CN tăng từ 519 lên 1113 (gấp 3 lần). Tương đương với đó là số lượng  nhân lực KH-CN cũng tăng gần 3 lần từ 22.300 người lên 60.500 người. Đặc  biệt cơ cấu trình độ được cải thiện đáng kể theo xu thế tỉ trọng cán bộ  trình độ cao tăng nhanh. Số lượng Tiến sĩ, Thạc sĩ năm 2011 tăng gần 10  lần so với năm 1996.
- Có sự đổi mới mạnh mẽ cơ chế chính sách trong hoạt động KH-CN nói  chung và sử dụng, trọng dụng cán bộ KH-CN  nói riêng. Cơ chế tự chủ, tự  chịu trách nhiệm cho các tổ chức KH-CN  công lập đã được triển khai thực  hiện theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP và các văn bản khác liên quan. Theo  đó, nhiều cơ chế về tài chính, về quản lý nhân lực, về tổ chức thực hiện  nhiệm vụ KH-CN được từng bước tháo gỡ theo hướng thông thoáng tự chủ.  Không những tạo điều kiện cho các tổ chức KH-CN chủ động trong hoạt động  của mình và cũng từng bước giải phóng sức sáng tạo của các nhà khoa  học.
- Các hoạt động thúc đẩy, khuyến khích các nhà khoa học trẻ tham gia  nghiên cứu khoa học cũng bắt đầu được chú trọng: Hình thành các nhóm  nghiên cứu tài năng trẻ trong các trường đại học, hình thành các diễn  đàn sáng tạo trẻ...
- Công tác đào tạo bồi dưỡng nhân lực khoa học công nghệ thời gian qua  cũng được chú trọng hơn thông qua các chương trình đưa cán bộ đi đào tạo  ở nước ngoài cũng như tăng cường đầu tư kinh phí, mở rộng, bổ sung  chương trình đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức để nâng cao kỹ năng  cho cán bộ KH-CN.
2. Về một số tồn tại:
- Về đội ngũ cán bộ quản lý khoa học ở các bộ, ngành địa phương, tuy ít  biến động về số lượng nhưng ngày càng thiếu hụt số lượng cán bộ quản lý  có trình độ, có kinh nghiệm, có tư duy có tầm bao quát. Đa số đội ngũ  cán bộ quản lý làm việc dựa trên kinh nghiệm là chính, tư duy đổi mới,  sáng tạo cũng như các kỹ năng quản lý mới còn hạn chế. Nhất là khối cán  bộ quản lý KH-CN  các địa phương.
- Về nguồn nhân lực trong các tổ chức KH-CN phân bố không đồng đều giữa  khu vực trung ương và địa phương. Tổ chức KH-CN địa phương còn ít số  lượng, hạn chế về chất lượng, khả năng đăng ký tuyển chọn và tổ chức  triển khai các nhiệm vụ KH-CN trọng điểm rất hạn chế. Các tổ chức KH-CN  trung ương tuy được nhà nước đầu tư về mọi mặt nhưng vẫn kém hấp dẫn đối  với nhân lực trẻ có trình độ khá, giỏi vì thu nhập còn thấp so với các  khu vực ngoài quốc doanh. Xu thế hiện nay là các tổ chức KH-CN  công lập  ít có cơ hội tuyển dụng nguồn nhân lực trẻ có trình độ khá giỏi chuyên  tâm nghiên cứu khoa học để đào tạo, kế cận.
- Các quy định về quyền và trách nhiệm của người trực tiếp làm công tác  nghiên cứu khoa học cũng như người lãnh đạo quản lý hoạt động KH-CN  còn  thiếu cụ thể, rõ ràng chưa gắn với kết quả và hiệu quả công việc. Dẫn  đến tình trạng "vừa thừa vừa thiếu" cán bộ nghiên cứu.
- Chế độ đãi ngộ cán bộ khoa học hiện nay thông qua tiền lương theo  ngạch bậc hành chính còn nhiều bất cập chủ yếu căn cứ vào thâm niên công  tác chưa chú trọng đến yếu tố trình độ chuyên môn, và hiệu quả công  việc nên chưa đánh giá đúng và trả công xứng đáng cho loại hình đặc thù  này.
-Hiện nay vẫn còn mâu thuẫn lợi ích  giữa nhà nghiên cứu, nhà sản xuất và chủ đầu tư, gây khó khăn không nhỏ  cho việc chuyển giao công nghệ vào cuộc sống. TS có thể chỉ ra những  xung đột đó là gì. Biện pháp nào để khắc phục? (Trần Toàn, Thành phố  Đồng Hới, Quảng Bình)
TS Trần Xuân Hồng: Trên  thực tế không có sự mâu thuẫn lợi ích giữa nhà nghiên cứu, nhà sản xuất  và chủ đầu tư. Điều đáng quan tâm hiện nay là thiếu môi trường để kết  nối giữa nhà sản xuất và nhà đầu tư. Cho nên việc đề ra các biện pháp để  kết nối giữa ba nhà với nhau là việc làm cần thiết. Đây cũng là mục  đích được đề ra trong việc sửa đổi Luật KH-CN lần này.
 - Hiện nay còn nhiều nhà khoa học  trẻ sau khi học ở nước ngoài không muốn về nước làm việc. Điều đó có  phải do chính sách đãi ngộ còn nhiều bất cập, khiến các nhà khoa học  chưa phát huy hết khả năng và sự sáng tạo của mình, thưa ông?
TS Trần Xuân Hồng:  Bạn  nói đến điều này thực tế là có như vậy nhưng theo tôi cũng không hẳn  tất cả các bạn trẻ đều không về là vì chính sách đãi ngộ mà còn vì điều  kiện cơ sở vật chất để hoạt động nghiên cứu trong nước cũng hạn chế so  với các điều kiện ở nước ngoài.
Điều này làm cho họ không phát huy hết  được khả năng sáng tạo của mình nên họ phải cân nhắc. Sự cân nhắc này  tôi nghĩ là cũng hợp lý. Vấn đề đặt ra đối với các cơ quan quản lý nhà  nước là phải có chính sách huy động được nguồn tài chính, sử dụng nguồn  tàii chính hiệu quả trong việc đầu tư nâng cấp các phòng thí nghiệm đạt  tiêu chuẩn. Cách làm này sẽ tạo lực hút các bạn trẻ trở nước làm việc,  nghiên cứu.
-Trong dự thảo Luật khoa học công  nghệ sửa đổi, được biết có quy định bắt buộc các doanh nghiệp trích phần  trăm lợi nhuận trước thuế để đầu tư cho quỹ phát triển KH-CN của doanh  nghiệp mình? Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào, thưa ông?
TS Trần Xuân Hồng: Tôi  nghĩ đây là vấn đề cần. Đầu tư cho KH-CN là mối quan tâm của toàn xã hội  chứ không riêng gì doanh nghiệp. Còn cách làm như thế nào và sử dụng ra  sao thì cần phải nghiên cứu cho phù hợp. Ví dụ với doanh nghiệp nhỏ,  lợi nhuận ít thì việc trích quỹ cũng sẽ ít cho nên phải có hình thức  trích vào quỹ chung để tạo ra nguồn kinh phí lớn phục vụ cho phát triển.
Ý tôi là với các doanh nghiệp nhỏ việc  trích quỹ riêng tại doanh nghiệp có thể không cần thiết mà nên trích vào  quỹ chung của địa phương. Như vậy sẽ giúp cho quỹ có quy mô đủ lớn đáp  ứng được nhu cầu đầu tư đổi mới công nghệ.
 
    
        
              | 
        
        
            | Toàn cảnh buổi giao lưu trực tuyến. (Ảnh: Minh Tú) | 
        
    
- Chào ông Lê Quân! Là Giảng viên  tham gia công tác quản lý ở Đại học, ông có thể cho biết nếu như các  trường đại học đều có Quỹ dành riêng cho phát triển KH-CN thì nên sử  dụng nguồn kinh phí đó như thế nào?
PGS. TS. Lê Quân: Theo  quy định, các trường ĐH đều có quỹ dành cho phát triển KH-CN. Tuy nhiên,  quỹ này còn rất nhỏ và chỉ mang tính động viên hơn là đầu tư. Bên cạnh  đó, các trường còn có thể lập các quỹ khuyến khích phát triển KH-CN khác  để huy động nguồn lực xã hội. ĐHGQ HN và ĐHQG TP. HCM đã lập Quỹ phát  triển ĐHQG để phát triển nhân tài và hỗ trợ các nhà khoa học trẻ. Các  Quỹ này cũng đã huy động được hàng trăm tỷ từ xã hội.
Khi phát triển các Quỹ, cơ chế tài chính  chi KH-CN sẽ được thông thoáng hơn. Tuy vậy, cũng đòi hỏi các trường  phải minh bạch các hoạt động của Quỹ. Để Quỹ trở nên hiệu quả các trường  cần thiết lập kênh giao tiếp trực tiếp giữa Quỹ và các nhà khoa học có  nhu cầu. Kinh phí phải được đảm bảo đến được với nhà khoa học có nhu cầu  và có sản phẩm đáp ứng yêu cầu.  Quỹ chỉ nên đầu tư cho những ý tưởng  mang tính đột phá và cần bệ đỡ ban đầu. Không nên đầu tư cho các hoạt  động KH-CN mang tính thường xuyên.
-Một nhà khoa học trong cuộc họp về  chính sách phát triển nguồn nhân lực KH-CN đã nói rằng, đào tạo đội ngũ  KH-CN đã quan trọng, song đào tạo đội ngũ quản lý khoa học còn quan  trọng hơn. Ông nghĩ sao về điều này?
 
    
        
              | 
        
        
            | Ông Đỗ Việt Trung tại tòa soạn báo Đất Việt. (Ảnh: Minh Tú) | 
        
    
Ông Đỗ Việt Trung:   Theo tôi, nhà khoa học hay nhà quản lý khoa học đều quan trọng vì mỗi  người đều có một vị trí, vai trò riêng. Ví như, nếu coi hoạt động khoa  học công nghệ như một chiếc xe thì người quản lý khoa học có vai trò như  là bộ phận lái. Còn cán bộ khoa học như chiếc bánh xe, thiếu bộ phận  nào thì xe cũng không thể hoạt động.
Vì vậy, đào tạo nhân lực KH-CN phải luôn chú ý đào tạo cả hai đội ngũ  này. Đào tạo người làm khoa học là đào tạo về trình độ, kỹ năng, chuyên  ngành khoa học để thu được những sản phẩm tốt từ các đề tài, công trình  khoa học. Còn đào tạo những người làm quản lý khoa học là đào tạo, bồi  dưỡng chuyên môn quản lý, kỹ năng quản lý đặc biệt là tư duy, tầm nhìn,  kỹ năng, xây dựng chính sách văn bản QPPL trong hoạt động khoa học công  nghệ.
-Một trong những vấn đề thời sự hiện  nay là nhiều doanh nghiệp VN đang sử dụng bất hợp pháp bản quyền SHTT  của các tổ chức, cá nhân đã được pháp luật bảo hộ. Ông đánh giá như thế  nào về hiện tượng này? Ở doanh nghiệp của ông có bao giờ bị xâm phạm  quyền SHTT không? Cách giải quyết của ông là gì?
TS. Đỗ Tuấn Đạt: Bản quyền trí tuệ trước tiên là công  sức của cá nhân các nhà khoa học trong việc đưa ra các phát minh và sáng  chế mới. Do đó, việc xâm phạm bản quyền trí tuệ sẽ ảnh hưởng tới quyền  lợi có tính hợp pháp của các nhà khoa học. Sản phẩm sử dụng bất hợp pháp  bản quyền sở hữu trí tuệ sẽ làm ảnh hưởng tới việc thúc đẩy các phát  minh và sáng chế mới, tạo ra các sản phẩm bất hợp pháp.
Đối với DN chúng tôi thì chưa xảy ra việc xâm phạm bản quyền SHTT. Tuy  nhiên, nhiều ý tưởng khoa học hay nhiều phương pháp nghiên cứu đã bị sao  chép mà không có sự xin phép trước đối với các tác giả.
Theo tôi cần có những qui định cụ thể về  việc cam kết bảo mật đối với các cán bộ được tiếp cận với các nguồn  thông tin về kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ của tác giả.
-Ông có thể cho biết, định hướng xây dựng các chức danh khoa học và  vinh danh các nhà khoa học có những đóng góp cho ngành KH-CN nước nhà  (như là kỹ sư hay tổng công trình sư chẳng hạn)?
Ông Đỗ Việt Trung:  Trong Dự thảo Luật KH-CN sửa đổi có dành một điều quy định chức danh  khoa học và chức danh công nghệ đây là những nội dung mới so với luật  trước đây. Xin lưu ý, chức danh khoa học và chức danh công nghệ không  phải theo chức danh viên chức được quy định theo Luật  viên chức mà là  những chức danh được quy định để thể hiện trình độ, năng lực và đóng góp  của nhà khoa học. Về chức danh khoa học sẽ bao gồm: Trợ lý nghiên cứu,  nghiên cứu viên, nghiên cứu viên cao cấp. Bộ Nội vụ sẽ phối hợp với Bộ  KH-CN, các bộ, ngành có liên quan sẽ quy định chi tiết về hệ thống danh  mục, tiêu chuẩn, mã số chức danh khoa học và chức danh công nghệ.
Về vinh danh các nhà khoa học có những đóng góp xuất sắc cho KH-CN nước  nhà. Trước đây, chúng ta có hệ thống các giải thưởng, như giải thưởng Hồ  Chí Minh, giải thưởng Nhà nước, giải thưởng Vifotech... Nhưng, chỉ để  ghi nhận, khen thưởng nhà khoa học theo công trình mà chưa thể hiện được  sự đánh giá của xã hội, cộng đồng về sự nghiệp hoạt động khoa học của  họ.
Vì vậy, Bộ KH-CN cũng đã đề xuất bổ sung vào Dự thảo Luât KH-CN sửa đổi một điều luật về danh hiệu vinh dự Nhà nước về KH-CN.
Mặc dù còn rất nhiều câu hỏi  của độc giả nhưng do thời lượng buổi giao lưu có hạn nên chúng tôi xin  phép được trả lời vào một dịp khác. Mọi câu hỏi xin gửi về địa chỉ  khoahoc@baodatviet.vn hoặc ttkhcn@most.gov.vn, tuyentruyen@most.gov.vn
Rất mong được gặp lại độc giả  trong những lần giao lưu sau. Xin trân trọng cảm ơn!
Báo Đất Việt