Toàn văn dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
											TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH; PHÁT  HUY SỨC MẠNH TOÀN DÂN TỘC VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA; ĐẨY MẠNH TOÀN  DIỆN, ĐỒNG BỘ CÔNG CUỘC ĐỘI MỚI; BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC, GIỮ VỮNG MÔI  TRƯỜNG HOÀ BÌNH, ỔN ĐỊNH; XÂY DỰNG NỀN TẢNG ĐỂ SỚM ĐƯA NƯỚC TA CƠ BẢN  TRỞ THÀNH NƯỚC CÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI
Đại  hội XII của Đảng họp vào thời điểm có ý nghĩa rất quan trọng: Toàn  Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục  tiêu và nhiệm vụ được xác định trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng;  trải qua 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá  độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược  phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, 2 năm thực hiện Hiến pháp năm  2013, 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm  việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng (2011 - 2015); nhìn lại 30  năm đổi mới; quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm 2016 -  2020; kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI;  đánh giá việc thi hành Điều lệ Đảng khóa XI; bầu Ban Chấp hành Trung  ương Đảng khóa XII (nhiệm kỳ 2016 - 2020).
Đại hội  diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, rất  phức tạp, khó lường; đất nước đứng trước nhiều vấn đề mới, có cả những  thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức gay gắt. Cán  bộ, đảng viên và nhân dân đặt nhiều kỳ vọng vào những quyết sách đúng  đắn, mạnh mẽ, phù hợp của Đảng để phát huy thuận lợi, vượt qua mọi khó  khăn, tiếp tục đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững. Vì vậy, Đại  hội XII có ý nghĩa rất quan trọng, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân và  toàn quân ta trong 5 năm tới: tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững  mạnh và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn  dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công  cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn  định; xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công  nghiệp theo hướng hiện đại.
I - ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI (2011 - 2015) VÀ NHÌN LẠI 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2016)
1 - Đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI; nguyên nhân và kinh nghiệm
Năm  năm qua, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, tình hình thế giới, khu vực  có nhiều diễn biến rất phức tạp; kinh tế thế giới phục hồi chậm, khủng  hoảng chính trị ở nhiều nơi, nhiều nước; cạnh tranh về nhiều mặt ngày  càng quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực; diễn biến phức tạp trên  Biển Đông... đã tác động bất lợi đến nước ta. Trong nước, ngay từ đầu  nhiệm kỳ, cùng với những ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy  thoái kinh tế toàn cầu, những hạn chế, khiếm khuyết vốn có của nền kinh  tế chưa được giải quyết, những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý  và những vấn đề mới phát sinh đã làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng  nghiêm trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng và đời sống  nhân dân. Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gây thiệt hại nặng nề.  Nhu cầu bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội ngày càng cao. Đồng thời, chúng  ta cũng phải dành nhiều nguồn lực để bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo  vệ chủ quyền đất nước trước những động thái mới của tình hình khu vực  và quốc tế.
Trong bối cảnh đó, nhìn tổng quát, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành quả quan trọng.
Nền  kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được  nâng lên; kinh tế vĩ mô dần ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng  trưởng kinh tế tuy thấp hơn 5 năm trước, nhưng vẫn đạt tốc độ khá và có  chiều hướng phục hồi. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh  tế và thực hiện ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện, đạt kết  quả tích cực bước đầu; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng  công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công  nghệ, văn hoá, xã hội tiếp tục phát triển. An sinh xã hội được quan tâm  nhiều hơn và cơ bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp tục được  cải thiện. Bảo vệ tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu  có những chuyển biến tích cực. chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng,  an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh  thổ của Tổ quốc, hoà bình, ổn định được giữ vững để phát triển đất nước.  Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả. Vị  thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Dân chủ xã hội  chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy.  Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng và  đạt một số kết quả quan trọng. Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp  quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, hiệu lực và  hiệu quả được nâng lên. Đã thể chế hoá kịp thời Cương lĩnh (bổ sung,  phát triển năm 2011), xây dựng và ban hành Hiến pháp năm 2013. Những  thành quả nêu trên tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục phát triển  nhanh, bền vững hơn trong giai đoạn mới.
Những thành  quả đạt được 5 năm qua có nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất  là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính  trị, Ban Bí thư, các cấp uỷ đảng trong việc triển khai thực hiện Nghị  quyết Đại hội XI, giải quyết kịp thời, có kết quả nhiều vấn đề mới phát  sinh; sự đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội và các cơ  quan dân cử; sự quản lý, điều hành năng động trên nhiều lĩnh vực của  Chính phủ, chính quyền các cấp; sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, sự nỗ  lực phấn đấu, sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; hội nhập  quốc tế sâu rộng đã đem lại nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi cho sự  nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, đổi mới  chưa đồng bộ và toàn diện. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt kế  hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020  nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt  được. Kinh tế vĩ mô ổn định nhưng chưa vững chắc; nợ công tăng nhanh,  nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao; sản xuất kinh doanh còn gặp  rất nhiều khó khăn. Tăng trưởng kinh tế thấp hơn 5 năm trước, không đạt  mục tiêu đề ra; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền  kinh tế còn thấp. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa  chậm được hoàn thiện, chưa có cơ chế đột phá để thúc đẩy phát triển;  chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, tiếp  tục là những yếu tố cản trở sự phát triển. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh  tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Nhiều hạn chế, yếu kém  trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá,  xã hội chậm được khắc phục. Quản lý tài nguyên, môi trường còn bất cập.  Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một  bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng  phí... chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Tội phạm và tệ nạn xã hội còn  diễn biến phức tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp. Dân chủ xã hội chủ  nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ;  kỷ cương, phép nước chưa nghiêm. Một số mặt công tác xây dựng Đảng, xây  dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Mặt trận Tổ quốc, các tổ  chức chính trị - xã hội chuyển biến chậm. Công tác dự báo, hoạch định và  lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước, hiệu lực,  hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý phát triển xã hội còn nhiều bất cập.  Hội nhập quốc tế có mặt chưa chủ động, hiệu quả chưa cao.
Những  hạn chế, khuyết điểm nêu trên có nguyên nhân khách quan là do tác động  của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai,  dịch bệnh; những diễn biến mới phức tạp của tình hình thế giới và khu  vực, tình hình căng thẳng do tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông; sự  chống phá của các thế lực thù địch.
Song trực tiếp và  quyết định nhất là nguyên nhân chủ quan: Cuối nhiệm kỳ khóa X, kinh tế  vẫn trên đà tăng trưởng, song một số khó khăn, hạn chế và những yếu kém  vốn có của nền kinh tế đã bộc lộ, nhưng do chưa đánh giá và dự báo đầy  đủ, nên Đại hội XI đề ra một số chỉ tiêu, nhiệm vụ khá cao. Công tác  tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa giải đáp được kịp thời một  số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới. Nhiều hạn chế, yếu kém trong  công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành của cấp uỷ, chính quyền các cấp,  của đội ngũ cán bộ, đảng viên chậm được khắc phục; chưa chú trọng đúng  mức tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp khi tập trung thực hiện chủ  trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; chưa quyết liệt trong  việc chỉ đạo thực hiện một số chủ trương, quan điểm phát triển đã được  nêu trong Nghị quyết Đại hội XI về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi  mới mô hình tăng trưởng và các đột phá chiến lược, chưa tạo được cơ chế,  chính sách có tính đột phá để huy động mọi nguồn lực cho phát triển.  Năng lực dự báo còn hạn chế, cho nên một số chủ trương, chính sách, giải  pháp đề ra chưa phù hợp.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, rút ra một số kinh nghiệm sau:
Một,  trước những khó khăn, thách thức trên con đường đổi mới, phải hết sức  chú trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng  lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững  mạnh; phải phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc;  tạo sự nhất trí trong Đảng và đồng thuận xã hội; có quyết tâm chính trị  cao với những biện pháp thiết thực, mạnh mẽ, đồng bộ, kiên quyết phòng,  chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ,  đảng viên, công chức, viên chức; chú trọng đổi mới công tác tổ chức -  cán bộ, đẩy mạnh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; phòng,  chống "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ; đồng thời đấu tranh  làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
Hai,  nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, bám sát  thực tiễn của đất nước và thế giới; đồng thời nắm bắt, dự báo những diễn  biến mới để kịp thời xác định, điều chỉnh một số chủ trương, nhiệm vụ,  giải pháp cho phù hợp. Phải chỉ đạo quyết liệt, kiên trì, sáng tạo để tổ  chức thực hiện thắng lợi những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà  nước.
Ba, gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các  nhiệm vụ, trong đó : phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng  Đảng là then chốt; phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội;  bảo đảm quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
Bốn,  kiên trì thực hiện các mục tiêu lâu dài, các nhiệm vụ cơ bản, đồng thời  tập trung các nguồn lực thực hiện hiệu quả những nhiệm vụ cấp bách,  trước mắt, giải quyết dứt điểm những yếu kém, ách tắc, tạo đột phá để  giữ vững và đẩy nhanh nhịp độ phát triển; chú trọng ổn định kinh tế vĩ  mô và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; phát huy mọi nguồn lực  trong và ngoài nước đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ  quốc.
Năm, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên  cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm mục  tiêu cao nhất, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc  trong tình hình mới.
2 - Nhìn lại 30 năm đổi mới (1986 - 2016)
Ba  mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp  phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng,  Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là  quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng  to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân  chủ, công bằng, văn minh".
Nhìn tổng thể, qua 30 năm  đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch  sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội  chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế,  yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát  triển nhanh và bền vững.
Đất nước ra khỏi khủng hoảng  kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát  triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại  hoá và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường  định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị  - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hoá - xã hội  có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều  thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng.  Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng  Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy  mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ  quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ  vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế  và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Những  thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát  triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của  Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước  ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch  sử.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta còn nhiều hạn chế, khuyết điểm.
Công  tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một  số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn,  cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách  và pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi  lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn  để tiếp tục làm rõ.
Kinh tế phát triển chưa bền vững,  chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy  động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, tốc độ tăng  trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất  lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát  triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường. Nhiều  vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội  chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những  nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực,  một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả  của công cuộc đổi mới. Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh  tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm  nhiệm vụ.
Việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được mục tiêu đề ra.
Bốn  nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng  (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ  "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới,  nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông mạng Internet để  chống phá ta và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong  nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có  mặt bị giảm sút.
Những hạn chế, khuyết điểm trên đây  đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nỗ lực phấn đấu không  ngừng để khắc phục, tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững  theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, khuyết điểm, rút ra một số bài học sau:
Một  là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ  sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng  sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế  thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân  loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Hai  là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi  ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần  trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức  mạnh đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, đổi mới phải toàn  diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất  phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn,  nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề  do thực tiễn đặt ra.
Bốn là, phải đặt lợi ích quốc  gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ  động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết  hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo  vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Năm  là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh  đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ  cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ;  nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc,  các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường  mối quan hệ mật thiết với nhân dân. 
II – MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ TỔNG QUÁT PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 5 NĂM 2016 – 2020
1 - Dự báo tình hình thế giới và đất nước những năm sắp tới
Trên  thế giới, trong những năm tới tình hình sẽ còn nhiều diễn biến rất phức  tạp, nhưng hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển  vẫn là xu thế lớn. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục  được đẩy mạnh. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tuỳ thuộc lẫn nhau  giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn ngày càng tăng. Cuộc cách mạng  khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát  triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, tạo  ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia.
Tình  hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất  phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp  lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ,  khủng bố, chiến tranh mạng, chiến tranh cục bộ... tiếp tục diễn ra gay  gắt ở nhiều khu vực.
Cục diện thế giới theo xu hướng  đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến  lược, vừa hợp tác, thoả hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn  nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu vực. Những biểu  hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ  nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế. Các thể chế đa  phương đứng trước những thách thức lớn. Các nước đang phát triển, nhất  là những nước vừa và nhỏ đang đứng trước những cơ hội và khó khăn, thách  thức lớn trên con đường phát triển. Trong bối cảnh đó, tập hợp lực  lượng, liên kết, cạnh tranh, đấu tranh giữa các nước trên thế giới và  khu vực vì lợi ích của từng quốc gia tiếp tục diễn ra phức tạp.
Những  vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh  nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh  có nhiều diễn biến phức tạp. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng  quyết liệt hơn với các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền  thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới.
Kinh  tế thế giới phục hồi chậm, gặp nhiều khó khăn, thách thức và còn có  nhiều biến động khó lường. Các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào mạng  sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Biến động của giá cả thế giới, sự  bất ổn về tài chính, tiền tệ và vấn đề nợ công tiếp tục gây ra những  hiệu ứng bất lợi đối với nền kinh tế thế giới. Tương quan sức mạnh kinh  tế giữa các quốc gia, khu vực đang có nhiều thay đổi. Hầu hết các nước  trên thế giới đều điều chỉnh chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới  thể chế kinh tế, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ để phát triển.  Cạnh tranh kinh tế, thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, thị  trường, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng gay  gắt. Xuất hiện nhiều hình thức liên kết kinh tế mới, các định chế tài  chính quốc tế, khu vực, các hiệp định kinh tế song phương, đa phương thế  hệ mới.
Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu  vực Đông Nam Á, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí  địa kinh tế - chính trị chiến lược ngày càng quan trọng trên thế giới.  Đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước  lớn, có nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo  trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp.  ASEAN trở thành cộng đồng, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong  duy trì hoà bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu  vực, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cả bên trong và  bên ngoài.
Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng  hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được  nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng  và bảo vệ Tổ quốc.
Năm năm tới là thời kỳ Việt Nam  thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các  hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu  rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân  dân ta phải nỗ lực rất cao để tận dụng thời cơ, vượt qua những thách  thức lớn trong quá trình hội nhập.
Kinh tế từng bước  ra khỏi tình trạng suy giảm, lấy lại đà tăng trưởng, nhưng vẫn còn nhiều  khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc; nợ công  tăng nhanh, nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao, năng suất, chất  lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp.
Bốn  nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra tiếp tục tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu  xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy  cơ "diễn biến hoà bình" của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta;  tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những  biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong một bộ phận cán bộ, đảng  viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn  biến phức tạp; khoảng cách giàu - nghèo, phân hoá xã hội ngày càng tăng,  đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của cán  bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Bảo vệ chủ quyền biển,  đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Tình hình chính trị - xã  hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định.
Tình  hình thế giới và trong nước tạo ra cả thời cơ, thuận lợi và khó khăn,  thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức  tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc  lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi Đảng,  Nhà nước và nhân dân ta phải nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn.
2 - Mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước trong 5 năm tới 
Kế  thừa và phát huy những thành tựu, bài học kinh nghiệm của 30 năm đổi  mới, nhất là 10 năm gần đây, tiếp tục thực hiện có kết quả các phương  hướng, nhiệm vụ đúng đắn đã được đề ra trong các nghị quyết của Đảng,  đồng thời đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên  các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị. Tiếp tục đổi mới tư  duy, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tháo gỡ kịp thời những khó khăn,  vướng mắc nhằm khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực của đất nước, tạo  động lực mới cho sự phát triển. Nhận thức đúng và xử lý tốt các nhân tố  tạo thành động lực : hài hoà lợi ích; phát huy lòng yêu nước, tinh thần  dân tộc; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy  nhân tố con người, vai trò của khoa học - công nghệ..., tạo thành động  lực tổng hợp để đổi mới và hội nhập.
Mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới:
Tăng  cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo,  cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững  mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy  mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền  vững, xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công  nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của  nhân dân. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh  thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ  nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế  và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Nhiệm vụ tổng quát trong 5 năm tới :
(1)  Tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước trên cơ sở giữ vững ổn định  kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy  mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại  hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển  kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của các ngành,  lĩnh vực; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của  nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát triển nhanh, bền  vững, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
(2)  Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng  xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương, tính  công khai, minh bạch trong quản lý kinh tế, năng lực quản lý của Nhà  nước và năng lực quản trị doanh nghiệp.
(3) Đổi mới  căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân  lực; đẩy mạnh phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ; phát huy vai  trò quốc sách hàng đầu của giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ  đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển của đất nước.
(4)  Xây dựng nền văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền  vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
(5)  Phát triển sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân  dân; bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện tốt chính sách lao động, việc  làm, thu nhập, chính sách với người có công; xây dựng môi trường sống  lành mạnh, an ninh, an toàn, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân,  quản lý tốt sự phát triển xã hội.
(6) Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
(7)  Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Xây dựng nền quốc phòng toàn  dân, nền an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang cách  mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hoá một  số quân chủng, binh chủng, lực lượng quan trọng; giữ vững an ninh chính  trị, trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,  thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân  dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
(8) Thực hiện đường  lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động và  tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, tạo  điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao  vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
(9)  Hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân  dân; không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn  dân tộc; tăng cường sự đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới nội dung và  phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
(10)  Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng bộ  máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp  luật, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ  cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; phát  huy dân chủ, tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh đấu  tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội và tội  phạm.
(11) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng  cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, tăng cường bản chất giai cấp  công nhân và tính tiên phong, sức chiến đấu của Đảng, ngăn chặn, đẩy  lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những  biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Đổi mới mạnh mẽ  công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội  bộ; tăng cường và nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận, công  tác kiểm tra, giám sát và công tác dân vận của Đảng; tiếp tục đổi mới  phương thức lãnh đạo của Đảng.
(12) Tiếp tục quán  triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn : quan hệ giữa đổi mới, ổn định và  phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo  các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa  phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ  sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng  kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;  giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa  độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản  lý, nhân dân làm chủ.
Các chỉ tiêu quan trọng phấn đấu đạt được 5 năm tới :
a) Về kinh tế
Tốc  độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm. Đến năm 2020,  GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD; tỉ trọng công nghiệp  và dịch vụ trong GDP trên 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5  năm bằng khoảng 32 - 34% GDP; bội chi ngân sách nhà nước không quá 4%  GDP. Yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 25 -  30%; năng suất lao động xã hội bình quân tăng 4 - 5%/năm; tiêu hao năng  lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 - 1,5%/năm. Tỉ lệ đô thị hoá đến  năm 2020 đạt 38 - 40%.
b) Về xã hội 
Đến  năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng  35 - 40%; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong đó có  bằng cấp, chứng chỉ đạt 25 - 26%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị  dưới 4%; có 10 bác sĩ và trên 26 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỉ lệ bao  phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân  khoảng 1,3 - 1,5%/năm.
c) Về môi trường
Đến  năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước  sạch, hợp vệ sinh và 80 - 85% chất thải nguy hại, 95 - 100% chất thải y  tế được xử lý; tỉ lệ che phủ rừng đạt 44 - 45%.
III – ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG, CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ; ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
1 - Tình hình
Mô  hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng đã bước đầu có sự chuyển  biến sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu; đã hình thành những mô  hình mới và cách làm mới, sáng tạo. Với việc cơ cấu lại nền kinh tế và  thực hiện ba đột phá chiến lược, nhất là trên một số lĩnh vực trọng tâm,  năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế có bước cải  thiện; bảo đảm hài hoà hơn giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công  bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. 
Hiệu  quả đầu tư xã hội, đầu tư công từng bước được cải thiện, tình trạng đầu  tư dàn trải bước đầu được hạn chế. Hệ thống các tổ chức tài chính - tín  dụng được cơ cấu lại một bước, không để xảy ra tình trạng đổ vỡ, mất an  toàn hệ thống. Doanh nghiệp nhà nước đang được sắp xếp, đổi mới theo  hướng tập trung vào ngành chính, đẩy mạnh cổ phần hoá, triển khai thực  hiện mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại, nâng cao tính công khai,  minh bạch và hiệu quả hoạt động.
Công nghiệp hoá,  hiện đại hoá tiếp tục được đẩy mạnh, đạt một số thành quả. Công nghệ sản  xuất công nghiệp đã có bước thay đổi về trình độ theo hướng hiện đại.  Tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong giá trị sản xuất công  nghiệp tăng, tỉ trọng công nghiệp khai thác giảm dần. Khu vực thương  mại, dịch vụ tăng trưởng khá; cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch phù hợp với  tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá nông nghiệp,  nông thôn có chuyển biến, mức độ cơ giới hoá trong nông nghiệp tăng;  nông nghiệp phát triển toàn diện hơn theo hướng khai thác những lợi thế  của nền nông nghiệp nhiệt đới; xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ.  Cơ cấu kinh tế vùng được quan tâm, có sự chuyển dịch theo hướng phát huy  tiềm năng, lợi thế của từng vùng và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa  các vùng, địa phương. Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tích cực; chất  lượng nguồn nhân lực bước đầu cải thiện. Đội ngũ doanh nhân tuy còn gặp  nhiều khó khăn nhưng đã có những đóng góp quan trọng vào phát triển kinh  tế - xã hội. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có bước phát  triển; quá trình đô thị hoá diễn ra khá nhanh. Hội nhập kinh tế quốc tế  sâu rộng trên nhiều cấp độ, góp phần thúc đẩy quá trình tham gia vào  mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao giá trị gia tăng của nền  kinh tế.
Những kết quả đạt được nêu trên chủ yếu là  do Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân ta đã có nhiều cố gắng trong  triển khai thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về đổi mới mô hình  tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; ban hành nhiều cơ chế, chính sách,  giải pháp để thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và các nghị quyết của Trung  ương phù hợp với tình hình mới.
Tuy nhiên, nền kinh  tế vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ  thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp,  chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học và công nghệ, lao động có kỹ năng.  Năng suất lao động chậm được cải thiện, thấp hơn nhiều so với một số  nước trong khu vực. Đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) vào  tăng trưởng kinh tế còn thấp. Chưa phát huy được lợi thế so sánh và tận  dụng các cam kết hội nhập quốc tế để nâng cao chất lượng tăng trưởng,  phát triển bền vững.
Nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở  mức cao, nợ công tăng nhanh. Tình trạng đầu tư công dàn trải, thất  thoát, lãng phí chậm được khắc phục. Việc xây dựng và thực hiện đề án cơ  cấu lại tổng thể nền kinh tế thiếu đồng bộ, chưa thật sự gắn với đổi  mới mô hình tăng trưởng, kết quả còn hạn chế. Thực hiện công nghiệp hoá,  hiện đại hoá còn chậm, chưa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Quy  hoạch phát triển các ngành công nghiệp nền tảng và công nghiệp hỗ trợ  chưa có định hướng chiến lược rõ ràng, hiệu quả thấp. Hệ thống kết cấu  hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém, lạc hậu và thiếu  tính kết nối. Phát triển đô thị thiếu đồng bộ, chất lượng thấp. Công  nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn còn chậm, chưa đạt yêu  cầu. Các ngành dịch vụ chất lượng cao chậm phát triển. Kinh tế biển phát  triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước. Sự phát  triển giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng còn thiếu liên kết  và phối hợp; không gian kinh tế còn bị chia cắt bởi địa giới hành  chính. Chất lượng nguồn nhân lực thấp, chuyển dịch cơ cấu lao động chưa  tương ứng với chuyển dịch cơ cấu sản xuất. 
Những hạn  chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do nhận thức, nhất là nhận thức về đổi  mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và công nghiệp hoá,  hiện đại hoá chưa đầy đủ; thể chế hoá và tổ chức thực hiện còn chậm,  thiếu hệ thống và đồng bộ. Chưa có đột phá về thể chế để huy động, phân  bổ và sử dụng có hiệu quả nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường.  Chưa xác định rõ những ngành, lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm cần ưu tiên  trong chính sách công nghiệp quốc gia cho từng giai đoạn; thiếu gắn kết  chặt chẽ, đồng bộ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá với đô thị hoá,  giữa phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn với xây dựng nông thôn  mới. Chưa nhận thức đầy đủ và xử lý tốt quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế  với phát triển văn hoá, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ và công  bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Chưa chuẩn bị thật tốt các  điều kiện cần thiết và tận dụng thời cơ để hội nhập quốc tế có hiệu  quả; có lúc, có việc chưa gắn chặt với đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện  đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
2 - Phương hướng, nhiệm vụ
Định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế
Mô  hình tăng trưởng trong thời gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển  chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất  lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao  động, tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao chất  lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc  tế, phát triển nhanh và bền vững; giải quyết hài hoà giữa mục tiêu  trước mắt và lâu dài; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá,  thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thân thiện với môi trường, nâng  cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Đổi  mới mô hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn  đầu tư sang phát triển đồng thời dựa cả vào vốn đầu tư, xuất khẩu và thị  trường trong nước. Phát huy vai trò quyết định của nội lực, đồng thời  thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; phát huy đầy đủ,  đúng đắn vai trò của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh  nghiệp FDI và khu vực sản xuất nông nghiệp.
Đẩy mạnh  ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo để nâng cao  năng suất lao động, thúc đẩy nghiên cứu và triển khai (R&D), nhập  khẩu công nghệ mới; thực hiện phương thức quản lý, quản trị hiện đại;  phát huy tiềm năng con người và khuyến khích tinh thần sản xuất kinh  doanh của mọi người để chủ động khai thác triệt để lợi thế cạnh tranh,  nâng cao giá trị gia tăng, tăng nhanh giá trị quốc gia và tham gia có  hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Tiếp tục đẩy  mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế và các ngành,  các lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung vào các lĩnh  vực quan trọng : cơ cấu lại đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu  lại thị trường tài chính với trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại  và các tổ chức tài chính, từng bước cơ cấu lại ngân sách nhà nước; cơ  cấu lại và giải quyết có kết quả vấn đề nợ xấu, bảo đảm an toàn nợ công;  cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước với trọng tâm là các tập đoàn, tổng  công ty nhà nước; cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia  tăng, gắn với phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới.  Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, nhất là đột phá về  thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm giải phóng  mạnh mẽ sức sản xuất, huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn  lực.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
Xác  định hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Chú trọng những  tiêu chí phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế (GDP bình quân đầu  người, tỉ trọng giá trị gia tăng công nghiệp chế tạo, tỉ trọng nông  nghiệp, tỉ lệ đô thị hoá, điện bình quân đầu người...); những tiêu chí  phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội (chỉ số phát triển con người,  tuổi thọ bình quân, chỉ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, số  bác sĩ trên 1 vạn dân, tỉ lệ lao động qua đào tạo...); và những tiêu chí  phản ánh trình độ phát triển về môi trường (tỉ lệ dân số sử dụng nước  sạch, độ che phủ rừng, tỉ lệ giảm mức phát thải khí nhà kính...)
Công  nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực  hiện mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện phát triển  kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn  với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và  nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu; huy động và phân bổ  có hiệu quả mọi nguồn lực phát triển. Xây dựng cơ cấu kinh tế và cơ cấu  lao động hợp lý, phát huy lợi thế so sánh, có năng suất lao động và năng  lực cạnh tranh cao, tham gia sâu rộng vào mạng sản xuất và chuỗi giá  trị toàn cầu; có văn minh công nghiệp chiếm ưu thế trong sản xuất và đời  sống xã hội; phát triển nhanh và bền vững phù hợp với điều kiện của  từng giai đoạn.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất  nước tiến hành qua ba bước : tạo tiền đề, điều kiện để công nghiệp hoá,  hiện đại hoá; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; và nâng cao chất  lượng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong 5 năm tới, tiếp tục đẩy mạnh  công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện  đại hoá nông nghiệp, nông thôn, phát triển nhanh, bền vững; xây dựng nền  tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng  hiện đại.
Phát triển công nghiệp 
Xây  dựng nền công nghiệp và thương hiệu công nghiệp quốc gia với tầm nhìn  trung, dài hạn, có lộ trình cho từng giai đoạn phát triển.
Tiếp  tục thực hiện tốt chủ trương và có chính sách phù hợp để xây dựng, phát  triển các ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, tăng hàm lượng khoa  học - công nghệ và tỉ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm, tập trung  vào những ngành có tính nền tảng, có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến  lược đối với sự phát triển nhanh, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự  chủ của nền kinh tế; có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản  xuất và phân phối toàn cầu.
Phát triển có chọn lọc  một số ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp công nghệ cao,  công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hoá chất,  công nghiệp xây dựng, xây lắp, công nghiệp quốc phòng, an ninh. Chú  trọng phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh; công nghiệp hỗ trợ;  công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn; năng lượng sạch, năng lượng  tái tạo và sản xuất vật liệu mới; từng bước phát triển công nghệ sinh  học, công nghiệp môi trường và công nghiệp văn hoá. Tiếp tục phát triển  hợp lý một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động. 
Phân  bố công nghiệp hợp lý hơn trên toàn lãnh thổ; nâng cao hiệu quả các khu  kinh tế, khu công nghiệp; sớm đưa một số khu công nghiệp công nghệ cao  vào hoạt động.
Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới
Xây  dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, ứng dụng công  nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất  khẩu.
Đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây  dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện cả về nông, lâm nghiệp và thuỷ  sản theo hướng hiện đại, bền vững, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh  và tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học - công  nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản  lý nông nghiệp và đẩy nhanh công nghiệp hoá nông nghiệp, hiện đại hoá  nông thôn để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo  đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài; nâng  cao thu nhập và đời sống của nông dân. Khai thác lợi thế của nền nông  nghiệp nhiệt đới, nâng cao giá trị gia tăng. Chú trọng đầu tư vùng trọng  điểm sản xuất nông nghiệp. Có chính sách phù hợp để tích tụ, tập trung  ruộng đất, thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp;  từng bước hình thành các tổ hợp nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ công  nghệ cao. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông  thôn mới và quá trình đô thị hoá một cách hợp lý, nâng cao chất lượng  dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, thu hẹp khoảng cách về phát  triển giữa đô thị và nông thôn, tăng cường kết nối nông thôn - đô thị,  phối hợp các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn với phát  triển công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Xác định vai trò hạt nhân của  doanh nghiệp trong nông nghiệp, đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu  quả hoạt động của các doanh nghiệp nông, lâm nghiệp nhà nước; phát  triển hợp tác xã kiểu mới; hình thành các vùng nguyên liệu gắn với chế  biến và tiêu thụ.
Phát triển khu vực dịch vụ
Đẩy  mạnh phát triển khu vực dịch vụ theo hướng hiện đại, đạt tốc độ tăng  trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng GDP. Tập  trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức  và công nghệ cao như : du lịch, hàng hải, dịch vụ kỹ thuật dầu khí, hàng  không, viễn thông, công nghệ thông tin. Hiện đại hoá và mở rộng các  dịch vụ có giá trị gia tăng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm,  chứng khóan, logistics và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất kinh doanh khác.  Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách giá dịch vụ giáo dục - đào tạo,  y tế; phát triển dịch vụ giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng cao, dịch  vụ khoa học và công nghệ, văn hoá, thông tin, thể thao, dịch vụ việc  làm. Hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch tầm cỡ khu vực và quốc  tế. Chủ động phát triển mạnh hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ trong  nước, tham gia vào mạng phân phối toàn cầu.
Phát triển kinh tế biển
Phát  triển mạnh kinh tế biển nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia và  bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp  dầu khí, đánh bắt xa bờ và hậu cần nghề cá, kinh tế hàng hải (kinh doanh  dịch vụ cảng biển, đóng và sửa chữa tàu, vận tải biển), du lịch biển,  đảo. Có cơ chế tạo bước đột phá về tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu  kinh tế biển, thu hút mạnh hơn mọi nguồn lực đầu tư để phát triển kinh  tế và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, khai thác tài  nguyên biển, đảo một cách bền vững. Tập trung đầu tư, nâng cao hiệu quả  hoạt động các khu kinh tế ven biển. 
Phát triển kinh tế vùng, liên vùng
Thống  nhất quản lý tổng hợp chiến lược, quy hoạch phát triển trên quy mô toàn  bộ nền kinh tế, vùng và liên vùng. Phát huy tiềm năng, thế mạnh của  từng vùng, đồng thời ưu tiên phát triển các vùng kinh tế động lực, tạo  sức lôi cuốn, lan toả phát triển đến các địa phương trong vùng và đến  các vùng khác. Có chính sách hỗ trợ phát triển các vùng còn nhiều khó  khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền  núi và hải đảo; phát triển kinh tế rừng. Đổi mới cơ chế phân cấp, phân  quyền, gắn với phân định và nâng cao trách nhiệm của trung ương và địa  phương. Thực hiện quy hoạch vùng, chính sách vùng; sớm xây dựng và thể  chế hoá cơ chế điều phối liên kết vùng theo hướng xác định rõ vai trò  đầu tàu và phân công cụ thể trách nhiệm cho từng địa phương trong vùng.  Khắc phục tình trạng nền kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính,  hoặc đầu tư dàn trải, trùng lặp. Xây dựng một số đặc khu kinh tế để tạo  cực tăng trưởng và thử nghiệm thể chế phát triển vùng có tính đột phá.
Phát triển đô thị 
Đổi  mới cơ chế, chính sách, kiểm soát chặt chẽ quá trình phát triển đô thị  theo quy hoạch và kế hoạch. Từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết  cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường, gồm một số đô  thị lớn, nhiều đô thị vừa và nhỏ liên kết và phân bố hợp lý trên các  vùng; chú trọng phát triển đô thị miền núi, phát triển mạnh các đô thị  ven biển. Nâng cao chất lượng, tính đồng bộ và năng lực cạnh tranh của  các đô thị; chú trọng phát huy vai trò, giá trị đặc trưng của các đô thị  động lực phát triển kinh tế cấp quốc gia và cấp vùng, đô thị di sản, đô  thị sinh thái, đô thị du lịch, đô thị khoa học.
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
Đẩy  mạnh huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội để tiếp tục tập  trung đầu tư hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tương  đối đồng bộ với một số công trình hiện đại. Ưu tiên và đa dạng hoá hình  thức đầu tư cho các lĩnh vực trọng tâm là : hạ tầng giao thông đồng bộ,  có trọng điểm, kết nối giữa các trung tâm kinh tế lớn và giữa các trục  giao thông đầu mối; hạ tầng ngành điện bảo đảm cung cấp đủ điện cho sản  xuất và sinh hoạt, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; hạ tầng  thuỷ lợi đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp và ứng phó với biến đổi  khí hậu, nước biển dâng; hạ tầng đô thị lớn hiện đại, đồng bộ, từng bước  đáp ứng chuẩn mực đô thị xanh của một nước công nghiệp.
IV - HOÀN THIỆN THỂ CHẾ, PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1 - Tình hình
Thể  chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là hệ thống  luật pháp, cơ chế, chính sách, tiếp tục được hoàn thiện. Vai trò, hiệu  quả, sức cạnh tranh của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp  trong nền kinh tế được nâng lên. Môi trường đầu tư và kinh doanh được  cải thiện, bình đẳng và thông thoáng hơn.
Các yếu tố  thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết  với thị trường khu vực và quốc tế. Hầu hết các loại giá được xác lập  theo nguyên tắc thị trường; thực hiện cơ chế giá thị trường có sự quản  lý của Nhà nước đối với một số loại hàng hoá - dịch vụ thiết yếu.
Vai  trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường,  ngày càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội. Việc huy  động và phân bổ các nguồn lực gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch  phát triển kinh tế - xã hội đã từng bước phù hợp với cơ chế thị trường;  hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
Hội nhập  kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng  bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Đã  thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Tích cực xây  dựng Cộng đồng ASEAN; hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo  cam kết WTO; đàm phán, ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự  do song phương và đa phương thế hệ mới.
Tuy nhiên,  hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu kiên quyết; hệ thống pháp  luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, chất lượng không  cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại  nền kinh tế, thực hiện ba đột phá chiến lược.
Kết quả  triển khai, thực thi thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa còn hạn chế, chưa tạo được đột phá lớn trong huy động, phân bổ và  sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển. Quyền tự do kinh doanh chưa  được tôn trọng đầy đủ; môi trường đầu tư, kinh doanh không thật sự bảo  đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Giá cả một số  hàng hoá, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự tuân theo nguyên tắc thị  trường.
Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả,  chưa thể hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước.  Hầu hết doanh nghiệp tư nhân quy mô còn nhỏ, thiếu liên kết, khả năng  ứng phó với các rủi ro yếu, nhiều doanh nghiệp phải giải thể hoặc ngừng  hoạt động. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động chủ yếu trong  các ngành sử dụng nhiều lao động, khai thác tài nguyên và còn hạn chế  trong chuyển giao công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến. 
Trình  độ phát triển của các loại thị trường thấp, vận hành chưa thật sự đồng  bộ, thông suốt, trong đó, thị trường lao động và thị trường dịch vụ công  cơ cấu chưa hợp lý; thị trường tài chính - tiền tệ và thị trường bất  động sản tiềm ẩn nhiều rủi ro; thị trường khoa học - công nghệ phát  triển chậm.
Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa  cao; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm; Nhà nước còn can thiệp trực tiếp,  quá lớn trong nền kinh tế. Vẫn còn tình trạng bao cấp, xin - cho trong  xây dựng và thực hiện một số cơ chế, chính sách. Sự tham gia giám sát  của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong  hoạt động quản lý nhà nước còn hạn chế.
Hội nhập kinh  tế quốc tế chưa kết hợp và phát huy tốt nguồn lực bên ngoài với nguồn  lực trong nước để phát triển. Các nỗ lực đổi mới kinh tế trong nước chưa  thật sự đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Nhiều bộ, ngành, địa phương,  hiệp hội, doanh nghiệp thiếu chủ động xây dựng các chương trình, kế  hoạch toàn diện, cụ thể, chuẩn bị các điều kiện và năng lực về mọi mặt  để khắc phục khó khăn, thách thức, tận dụng cơ hội do hội nhập đem lại.
Việc  tự do hoá thương mại, đầu tư trong một số thị trường, lĩnh vực chưa sát  hợp với thực tế phát triển của nền kinh tế. Chậm xây dựng hàng rào kỹ  thuật cần thiết và hệ thống quản lý thị trường đủ năng lực và hiệu quả  để bảo vệ thị trường trong nước, duy trì môi trường cạnh tranh lành  mạnh, bình đẳng, ngăn chặn gian lận thương mại, hàng giả, hàng lậu và  hàng độc hại.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu  là do nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa  còn chưa đủ rõ, nhất là về kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, kinh  tế tập thể, cơ chế phân bổ nguồn lực, sở hữu đất đai, cơ chế giá một số  hàng hoá, dịch vụ công thiết yếu. Chưa thật sự phát huy đầy đủ quyền tự  do kinh doanh của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật. Cơ  chế thực thi và phối kết hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong quán  triệt, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật còn kém  hiệu lực, hiệu quả. Cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát và xử lý vi  phạm còn yếu; năng lực phân tích, dự báo và điều chỉnh chủ trương, cơ  chế, chính sách còn hạn chế. Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị  quyết Đại hội XI, đất nước chịu tác động tiêu cực của khủng hoảng tài  chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, trong khi đó, trình độ, năng lực  nội tại của nền kinh tế và năng lực xây dựng, thực thi thể chế kinh tế  còn nhiều bất cập.
2 - Phương hướng, nhiệm vụ
Phương hướng, mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Tiếp tục thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền  kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế  vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng  thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát  triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập  quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng  Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân  chủ, công bằng, văn minh".
Nền kinh tế thị trường  định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp  với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở  hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ  đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các  chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh  theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân  bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải  phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược,  quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai  trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường  cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các nguồn lực của  Nhà nước và công cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế,  thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ,  công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy  vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
Những  nhận thức trên đây có giá trị định hướng lâu dài trong suốt thời kỳ quá  độ, cần tiếp tục cụ thể hoá phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
Đến  năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế  thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của  nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng  bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị  trường; bảo đảm sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn  hoá, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm  an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững; chủ động,  tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập,  tự chủ; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo trong xây dựng  và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát  triển kinh tế - xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
Thể  chế hoá quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định  đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân  đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm minh bạch về nghĩa vụ  và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để  quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Bảo đảm quyền quản lý, thu lợi  của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận  tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Nâng cao năng lực của  các thiết chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh  chấp kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản.
Mọi doanh  nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị  trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Có chính sách thúc đẩy  phát triển các doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng  cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bảo đảm quyền  tự do kinh doanh các lĩnh vực mà luật pháp không cấm; xây dựng, thực  thi đồng bộ, hiệu quả cơ chế hậu kiểm, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về  cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền nhà nước và độc  quyền doanh nghiệp, kiểm soát độc quyền kinh doanh. Hoàn thiện thể chế  bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản. Hoàn thiện pháp luật  phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thị trường. 
Tiếp  tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng : doanh nghiệp  nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa  bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp  thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Đẩy mạnh cổ phần hoá,  bán vốn mà Nhà nước không cần nắm giữ, bao gồm cả những doanh nghiệp  đang kinh doanh có hiệu quả; hoàn thiện thể chế định giá đất đai, tài  sản hữu hình và tài sản vô hình (tài sản trí tuệ, thương hiệu,...) trong  cổ phần hoá theo nguyên tắc thị trường. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất  kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích. Tách chức năng chủ sở hữu  tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý nhà nước, chức năng quản  trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; sớm xoá bỏ chức năng đại diện  chủ sở hữu nhà nước của các bộ, Uỷ ban nhân dân đối với vốn, tài sản nhà  nước tại các doanh nghiệp. Thành lập một cơ quan chuyên trách làm đại  diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Kiện toàn đội ngũ cán bộ  lãnh đạo, quản lý và nâng cao năng lực quản trị, quản lý doanh nghiệp  nhà nước phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Tăng cường quản lý, giám sát,  kiểm tra, kiểm soát bảo đảm công khai, minh bạch về đầu tư, tài chính và  các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt  động của các đơn vị sự nghiệp công theo hướng nâng cao chế độ tự chủ,  tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự và tài chính;  xã hội hoá lĩnh vực dịch vụ công, thu hút các thành phần kinh tế tham  gia vào lĩnh vực này.
Tiếp tục đổi mới nội dung và  phương thức hoạt động của kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã; đẩy mạnh  liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản  lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước có cơ chế, chính  sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao  kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường, tạo điều kiện phát  triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển và phát huy vai trò của  kinh tế hộ.
Khuyến khích phát triển các loại hình  doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn  hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần. 
Hoàn thiện cơ  chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư  nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực  quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển  doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình  thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các  tập đoàn kinh tế nhà nước. 
Nâng cao hiệu quả thu hút  đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình  độ quản lý và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động lựa chọn và ưu đãi  đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ  hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết  với doanh nghiệp trong nước. Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có  vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước nhằm phát triển công  nghiệp hỗ trợ và công nghiệp quy mô lớn, chất lượng cao, gắn với các  chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. 
Trong quản lý và  phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, cần phát huy  mặt tích cực có lợi cho đất nước, đồng thời kiểm tra, giám sát, kiểm  soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực.
Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường
Thực  hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và  công khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với hàng hoá, dịch vụ  công thiết yếu; đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp cho đối tượng  chính sách và người nghèo. Không lồng ghép các chính sách xã hội trong  giá. Hoàn thiện pháp luật về phí, lệ phí; rà soát, chuyển đổi chính sách  phí, lệ phí đối với một số dịch vụ công sang áp dụng chế độ giá dịch  vụ. Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá. Đẩy mạnh hoàn thiện  thể chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, phát huy đầy đủ, đúng đắn vai  trò của người tiêu dùng, các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong  nền kinh tế.
Tiếp tục phát triển đồng bộ và vận hành  thông suốt các loại thị trường. Thực hiện đa dạng hoá thị trường hàng  hoá, dịch vụ theo hướng hiện đại, chú trọng hình thành khung pháp lý,  phát triển hệ thống phân phối thông suốt và hiệu quả. Cơ cấu lại thị  trường tài chính, bảo đảm lành mạnh hoá và ổn định vững chắc kinh tế vĩ  mô, loại bỏ nguy cơ mất an toàn hệ thống, phục vụ có hiệu quả phát triển  sản xuất kinh doanh; bảo đảm nguyên tắc thị trường đối với thị trường  tài chính gắn với tăng cường quản lý, kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước  và giám sát của xã hội; phát triển thị trường mua bán nợ, thị trường các  công cụ phái sinh, cho thuê tài sản. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp  luật, cơ chế, chính sách để thị trường bất động sản vận hành thông suốt,  phù hợp quy luật cung - cầu nhằm khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu  quả nguồn lực từ đất đai và tài sản, kết cấu hạ tầng trên đất; ngăn ngừa  đầu cơ, lãng phí. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ,  liên thông thị trường lao động cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ  cấu ngành nghề. Tiếp tục đổi mới, phát triển mạnh mẽ và đồng bộ thị  trường khoa học - công nghệ, thực hiện cơ chế thị trường và có chính  sách hỗ trợ để khuyến khích các tổ chức, cá nhân, nhất là doanh nghiệp  đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ  khoa học - công nghệ vào sản xuất kinh doanh.
Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
Tiếp  tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, chuẩn bị kỹ các điều kiện thực hiện  các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tham gia các điều ước quốc tế  trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư,... Chủ động, tích cực  hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế  quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; kết hợp  hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự  chủ. 
Rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế,  chính sách nhằm thực thi có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do mà  Việt Nam đã ký kết. Hoàn thiện thể chế để tận dụng cơ hội và phòng ngừa,  giảm thiểu các thách thức do tranh chấp quốc tế, nhất là tranh chấp  thương mại, đầu tư quốc tế. Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp  phù hợp với pháp luật quốc tế.
Nâng cao năng lực  lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế -  xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế  - xã hội
Nâng cao năng lực hoạch định đường  lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng; tăng cường lãnh  đạo việc thể chế hoá và việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của  Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội; tăng  cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện đường lối,  chủ trương, nghị quyết của Đảng; lãnh đạo việc bố trí cán bộ và lãnh  đạo, chỉ đạo việc thực hiện của đội ngũ cán bộ hoạt động trong các lĩnh  vực kinh tế - xã hội. Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác tham mưu về  kinh tế - xã hội ở các cấp, các ngành.
Nhà nước thể  chế hoá nghị quyết của Đảng, xây dựng, tổ chức thực hiện luật pháp,  chính sách, bảo đảm các loại thị trường ngày càng hoàn thiện và vận hành  thông suốt, cạnh tranh công bằng, bình đẳng và kiểm soát độc quyền kinh  doanh; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, cải  thiện môi trường đầu tư, kinh doanh.
Đổi mới, hoàn  thiện cơ chế, chính sách để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; bảo  đảm quyền tự do, dân chủ trong hoạt động kinh tế của người dân theo quy  định của Hiến pháp, pháp luật và sự tham gia có hiệu quả của Mặt trận Tổ  quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng và giám sát việc  thực hiện thể chế kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội.
V – ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO; PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
1 - Tình hình
Các  nghị quyết của Đảng về giáo dục, đào tạo được lãnh đạo, chỉ đạo, tổ  chức thực hiện, đạt được những thành quả nhất định. Quy mô, mạng lưới cơ  sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng. Hệ thống giáo dục và đào  tạo các cấp từ cơ sở đến đại học, dạy nghề được tổ chức lại một bước.  Quan tâm đầu tư cho giáo dục, đào tạo (bằng 20% tổng chi ngân sách nhà  nước). Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ. Cơ sở vật chất, thiết  bị giáo dục, đào tạo được cải thiện và có bước hiện đại hoá. Đội ngũ nhà  giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất  lượng. Xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh. Công tác quản lý giáo dục và  đào tạo có bước chuyển biến. Chủ trương đầu tư cho giáo dục là đầu tư  cho con người đã được các cấp uỷ, chính quyền quan tâm chỉ đạo thực hiện  và nhận được sự ủng hộ của toàn xã hội. 
Tuy nhiên,  chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất  là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo  thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào  tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với  nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao  động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng  làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả  còn lạc hậu, thiếu thực chất. Quản lý giáo dục và đào tạo có mặt còn yếu  kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng,  số lượng và cơ cấu. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính  sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ sở vật  chất - kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng  đặc biệt khó khăn.
2 - Phương hướng, nhiệm vụ 
Giáo  dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao  dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình  giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng  lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực  tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển  kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học và  công nghệ, với quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực.
Phấn  đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất  lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc  xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Phấn đấu đến  năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.  Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất  tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc,  yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Tiếp  tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo  theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Đổi  mới chương trình, nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại,  thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề. Đa dạng hoá  nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương  trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người. Tiếp  tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học, hình thức và phương pháp  thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực,  khách quan.
Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân  theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học  tập. Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại  học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển  nguồn nhân lực. Tăng tỉ lệ trường ngoài công lập đối với giáo dục nghề  nghiệp và giáo dục đại học.
Đổi mới căn bản công tác  quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự  chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng  quản lý chất lượng. Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở  giáo dục, đào tạo; thực hiện giám sát của các chủ thể trong nhà trường  và xã hội, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý  các cấp, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch.
Phát  triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo  dục và đào tạo. Thực hiện chuẩn hoá đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học  và trình độ đào tạo.
Đổi mới chính sách, cơ chế tài  chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả  đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo  trong đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo, ngân sách nhà nước chi cho  giáo dục và đào tạo tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách; nâng cao  hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế,  chính sách giá dịch vụ giáo dục - đào tạo. Đẩy mạnh xã hội hoá, trước  hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Tiếp tục thực hiện  mục tiêu kiên cố hoá trường, lớp học; từng bước hiện đại hoá cơ sở vật  chất - kỹ thuật, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin. 
Nâng  cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ,  đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý. Khuyến khích thành  lập viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp  khoa học và công nghệ. Nghiên cứu sáp nhập một số tổ chức nghiên cứu  khoa học và triển khai công nghệ với các trường đại học công lập.
Xây  dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước nói chung và cho  từng ngành, từng lĩnh vực nói riêng, với những giải pháp đồng bộ, trong  đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong  nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất kinh doanh.
VI - PHÁT TRIỂN VÀ ỨNG DỤNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ
1 - Tình hình
Trong  thời gian qua, khoa học, công nghệ đã có đóng góp tích cực cho phát  triển kinh tế - xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Khoa học xã hội và nhân  văn góp phần quan trọng trong việc cung cấp luận cứ khoa học cho việc  hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của  Nhà nước; khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, bảo vệ  chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị và bản sắc  văn hoá Việt Nam. Khoa học tự nhiên tiếp tục phát triển các ngành khoa  học cơ bản, cũng như những lĩnh vực khoa học và công nghệ liên ngành,  khoa học mới, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và sức  cạnh tranh của nền kinh tế. Một số ngành khoa học, công nghệ mũi nhọn đã  có đóng góp tích cực cho công tác quản lý, điều hành của Nhà nước, cho  phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh của đất  nước. Hiệu quả hoạt động khoa học, công nghệ có chuyển biến; tiềm lực  khoa học, công nghệ được nâng lên. Quản lý nhà nước về khoa học, công  nghệ có đổi mới. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ có bước tiến bộ.  Thị trường khoa học, công nghệ đã hình thành và bước đầu phát huy tác  dụng. 
Tuy nhiên, khoa học, công nghệ chưa thực sự  gắn kết và trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Việc huy động  nguồn lực của xã hội cho khoa học, công nghệ chưa được chú trọng. Không  hoàn thành mục tiêu xây dựng các trung tâm khoa học lớn đồng bộ, có  trọng tâm, trọng điểm, có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.  Đầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao. Cơ  chế quản lý khoa học, công nghệ chậm đổi mới. Thị trường khoa học và  công nghệ phát triển chậm. Công tác quy hoạch, phát triển khoa học, công  nghệ chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo  đảm quốc phòng, an ninh. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ còn  thiếu định hướng chiến lược, hiệu quả thấp.
2 - Phương hướng, nhiệm vụ
Phát  triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực  sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực  lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất  lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường,  bảo đảm quốc phòng, an ninh. Đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt  Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm  2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới. 
Phát  triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một nội dung cần được ưu tiên  tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp.  Các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội đều phải  xây dựng trên những cơ sở khoa học vững chắc, xác định rõ các giải pháp  công nghệ hiện đại phù hợp nhằm nâng cao năng suất lao động và hiệu quả  kinh tế. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý,  cơ chế hoạt động, công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển  khoa học và công nghệ; phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách  cán bộ, cơ chế tự chủ của các tổ chức khoa học và công nghệ phù hợp với  kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên và tập trung mọi  nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học và công nghệ. Xây dựng chiến  lược phát triển công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ  bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt  động trên đất nước ta.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng  bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học và công nghệ, nhất là cơ  chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính.
Có  cơ chế thúc đẩy đổi mới công nghệ theo hướng ứng dụng công nghệ mới,  công nghệ hiện đại. Huy động mạnh mẽ nguồn vốn xã hội và các nguồn vốn  nước ngoài đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ.
Quy  hoạch, sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ; xây dựng một  số trung tâm nghiên cứu hiện đại. Phát triển, nâng cao năng lực hệ  thống các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, phát triển thị trường  khoa học và công nghệ.
Thực hiện cơ chế tự chủ, tự  chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Tăng cường  liên kết giữa tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp.
Xây  dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ,  tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, nhất là các chuyên gia  giỏi, có nhiều đóng góp. Tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để  cán bộ khoa học và công nghệ phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích  xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình. Thực hành dân chủ, tôn  trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo,  tư vấn, phản biện của các nhà khoa học.
Kiện toàn,  nâng cao năng lực bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về khoa học  và công nghệ. Hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công  nghệ, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hoá  theo hướng hỗ trợ hiệu quả cho việc vận hành thị trường khoa học và công  nghệ.
Phát huy và tăng cường tiềm lực khoa học và  công nghệ quốc gia. Tập trung đầu tư phát triển một số viện khoa học và  công nghệ, trường đại học cấp quốc gia và một số khu công nghệ cao, vùng  kinh tế trọng điểm theo mô hình tiên tiến của thế giới.
VII - PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ, XÂY DỰNG CON NGƯỜI
1 - Tình hình
Sự  nghiệp phát triển văn hoá và xây dựng con người đã được Đảng, Nhà nước  quan tâm trong các chính sách kinh tế - xã hội từ trung ương đến các địa  phương. Thực hiện nhiệm vụ xây dựng con người đáp ứng yêu cầu của thời  kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế có bước chuyển biến  quan trọng : Gắn nhiệm vụ xây dựng con người với nhiệm vụ xây dựng và  phát triển đất nước, bước đầu hình thành những giá trị mới về con người  với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ  động, sáng tạo, khát vọng vươn lên. Hệ thống thể chế và thiết chế văn  hoá từng bước được tăng cường. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống của  dân tộc và của từng vùng, miền được kế thừa; nhiều di sản văn hoá được  bảo tồn, tôn tạo. Xã hội hoá hoạt động văn hoá ngày càng mở rộng. Văn  học, nghệ thuật có bước phát triển. Truyền thông đại chúng phát triển  nhanh cả về loại hình, quy mô, lực lượng, phương tiện kỹ thuật và ảnh  hưởng xã hội. Đời sống văn hoá của nhân dân được cải thiện. Phong trào  "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" đã khơi dậy được nhiều giá  trị nhân văn trong cộng đồng. Việc xây dựng môi trường văn hoá đã được  chú trọng hơn. Công tác quản lý nhà nước về văn hoá được tăng cường.  Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hoá có nhiều khởi sắc.
Chủ  trương của Đảng gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát  triển, xây dựng con người và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đã trở  thành tư tưởng chỉ đạo cho nhiều chương trình, kế hoạch phát triển. Sự  vào cuộc của cả hệ thống chính trị cùng với sự đầu tư của Nhà nước, sự  tham gia của nhân dân là những nhân tố quyết định tạo ra những chuyển  biến của sự nghiệp phát triển văn hoá, xây dựng con người.
Tuy  nhiên, so với những thành quả trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc  phòng, an ninh, đối ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hoá chưa tương  xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường  văn hoá lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,  lối sống trong Đảng và trong xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Đời  sống văn hoá tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách  hưởng thụ văn hoá giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong  các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hoá còn tồn tại  những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ  tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng. Việc  bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá đạt hiệu quả chưa cao. Hệ  thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng  phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan  truyền thông có biểu hiện thương mại hoá, xa rời tôn chỉ, mục đích. Hệ  thống thiết chế văn hoá và cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hoạt động văn  hoá còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng  thấp. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc  sản phẩm văn hoá nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hoá  của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ. 
Nguyên  nhân của những hạn chế, yếu kém trên đây chủ yếu là do nhiều cấp uỷ,  chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo chưa  thật quyết liệt. Việc cụ thể hoá, thể chế hoá nghị quyết của Đảng còn  chậm, thiếu đồng bộ. Công tác quản lý nhà nước về văn hoá chậm được đổi  mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng. Đầu tư cho lĩnh vực  văn hoá chưa tương xứng và còn dàn trải. 
2 - Phương hướng, nhiệm vụ
Các  cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện có kết quả mục tiêu :  Xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng  đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ  và khoa học. Văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của  xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững  và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ,  công bằng, văn minh".
Xây dựng con người Việt Nam  phát triển toàn diện. Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hoá và con  người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách,  đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã  hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật. Tạo chuyển biến mạnh  mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu  biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hoá dân tộc. Đúc kết và xây  dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá,  hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt  đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn. Đấu  tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các  quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn  hoá, làm tha hoá con người. Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống  cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt  Nam. 
Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phù hợp  với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa  và hội nhập quốc tế. Xây dựng môi trường văn hoá, đời sống văn hoá lành  mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng  đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình,  góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống.  Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị  truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn  minh. Xây dựng mỗi trường học thật sự là một trung tâm văn hoá giáo dục,  rèn luyện con người. Xây dựng đời sống văn hoá ở địa bàn dân cư, các cơ  quan, đơn vị, doanh nghiệp. Xây dựng nếp sống văn hoá tiến bộ, văn  minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nâng cao chất lượng,  hiệu quả các cuộc vận động văn hoá, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây  dựng đời sống văn hoá". Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn  hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã  hội. Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hoá tôn giáo, tín  ngưỡng.
Xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế.  Chú trọng chăm lo xây dựng văn hoá trong Đảng, trong các cơ quan nhà  nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống  chính trị trong sạch, vững mạnh. Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hoá  trong kinh tế. Xây dựng văn hoá doanh nghiệp, văn hoá doanh nhân với ý  thức thượng tôn pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh vì sự phát  triển bền vững của đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nâng  cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hoá. Huy động sức mạnh của toàn  xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc;  khích lệ sáng tạo các giá trị văn hoá mới, tiếp thu tinh hoa văn hoá  nhân loại, làm giàu văn hoá dân tộc. Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp  lý, hài hoà giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hoá với phát triển kinh tế  - xã hội. Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, tạo mọi điều kiện  cho sự tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ. Đổi mới phương thức  hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật. Quy hoạch, sắp xếp lại hệ  thống báo chí đáp ứng yêu cầu phát triển, bảo đảm thiết thực, hiệu quả.  Chú trọng công tác quản lý các loại hình thông tin trên Internet để định  hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu  niên. Các cơ quan truyền thông phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích,  đối tượng phục vụ chủ yếu, nâng cao tính tư tưởng, nhân văn và khoa học,  đề cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, góp phần xây dựng văn hoá  và con người Việt Nam.
Phát triển công nghiệp văn  hoá đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hoá. Có cơ chế khuyến  khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên  tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hoá. Tạo thuận lợi cho các  doanh nghiệp văn hoá, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các nguồn lực  xã hội để phát triển. Đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp  lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hoá lành mạnh; đẩy  mạnh phát triển công nghiệp văn hoá; tăng cường quảng bá văn hoá Việt  Nam. Nâng cao ý thức thực thi các quy định pháp luật về quyền tác giả và  các quyền liên quan trong toàn xã hội. 
Chủ động hội  nhập quốc tế về văn hoá, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Chủ động  mở rộng hợp tác văn hoá với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức  văn hoá đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hoá đi vào chiều sâu,  đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế  giới, làm phong phú thêm văn hoá dân tộc. Chủ động đón nhận cơ hội phát  triển, vượt qua các thách thức để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hoá  dân tộc; hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn  cầu hoá về văn hoá.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh  đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với  lĩnh vực văn hoá. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa  bảo đảm để văn hoá, văn học - nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định  hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá  nhân trong sáng tạo trên cơ sở phát huy trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ  công dân với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh  đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo.
Tập  trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hoá  đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Đẩy nhanh việc thể chế hoá, cụ thể  hoá các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hoá. Hoàn thiện các thiết  chế văn hoá và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách  về văn hoá, về quyền tác giả và các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn  mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam.
Xây dựng chiến  lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hoá. Coi trọng quy hoạch, đào tạo,  bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hoá, cán bộ làm công tác  khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở.
Mức  đầu tư của Nhà nước cho văn hoá phải tương ứng với mức tăng trưởng kinh  tế. Đẩy mạnh xã hội hoá nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến  tặng cho phát triển văn hoá, xây dựng con người.
VIII – QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI; THỰC HIỆN TIẾN BỘ, CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1 - Tình hình
Trong  những năm qua, đời sống và thu nhập của người dân không ngừng được nâng  lên. Đảng và Nhà nước luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các  chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, dân tộc, tôn giáo để giải  quyết các vấn đề xã hội. Nhận thức của toàn xã hội về tăng trưởng kinh  tế đi đôi với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội  được nâng lên. Hệ thống luật pháp và chính sách được bổ sung nhằm điều  tiết các quan hệ xã hội. Ngân sách nhà nước dành cho các chương trình  quốc gia nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội tăng. Việt Nam đã  hoàn thành hầu hết và cơ bản các chỉ tiêu Thiên niên kỷ. Đặc biệt là đã  thực hiện tốt chỉ tiêu giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,  thực hiện nhiều chính sách để ổn định, từng bước nâng cao đời sống nhân  dân. Đã thực hiện có hiệu quả nhiều chính sách đối với người cao tuổi,  người khuyết tật, trẻ em, phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao,  vùng sâu, vùng xa, giảm nghèo bền vững, chăm sóc sức khoẻ cho người dân  đồng thời tạo điều kiện để người dân chủ động phòng ngừa, giảm thiểu và  khắc phục rủi ro trong đời sống, kinh tế, xã hội và môi trường. Quan tâm  thực hiện chính sách chăm sóc người có công.
Mặc dù  vậy, quản lý phát triển, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều  hạn chế, khuyết điểm. Sự phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền thiếu  đồng bộ. Việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả; mục tiêu  xây dựng quan hệ hài hoà giữa các lĩnh vực, ngành nghề, vùng, miền chưa  đạt yêu cầu; giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệch giàu - nghèo và bất  bình đẳng có xu hướng gia tăng. Chưa nhận thức đầy đủ vai trò của phát  triển xã hội hài hoà, chưa có chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả  đối với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân hoá giàu - nghèo, phân tầng xã hội,  kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội,  an ninh cho con người.
Nhiều lĩnh vực của phát triển  bền vững chưa được nghiên cứu đầy đủ. Quản lý phát triển xã hội chưa xác  định rõ định hướng và những nhiệm vụ mang tính tổng thể, đồng bộ, liên  vùng, liên ngành, liên lĩnh vực, còn bị chia cắt theo vùng, lĩnh vực  quản lý. Hệ thống chính sách, pháp luật chưa đồng bộ. Chưa thể chế hoá  và chưa có sự quản lý thống nhất ở cấp vĩ mô về phát triển xã hội bền  vững. Hệ thống văn bản pháp lý về phát triển của từng ngành, địa phương  chưa đồng bộ, thiếu nhất quán; nhiều kế hoạch phát triển của từng lĩnh  vực, địa phương chưa chú ý đúng mức đến phát triển xã hội bền vững của  vùng, liên vùng và quốc gia.
2 - Phương hướng, nhiệm vụ 
Nhận  thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và  quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.  Xây dựng, thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội; có  các giải pháp quản lý hiệu quả để giải quyết hài hoà các quan hệ xã hội,  ngăn chặn, giải quyết có hiệu quả những bức xúc, mâu thuẫn có thể dẫn  đến xung đột trong xã hội. Trong xây dựng và thực hiện các chính sách  phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ  phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao,  vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hoá giàu - nghèo,  bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững.
Thực  hiện các giải pháp, chính sách và quản lý để khắc phục từng bước sự mất  cân đối về phát triển đối với từng lĩnh vực, từng vùng, bảo đảm sự hài  hoà cả trong phát triển, hưởng thụ; bảo đảm cơ cấu giai tầng xã hội, dân  cư, ngành nghề hợp lý. Kịp thời kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu  thuẫn, xung đột xã hội. Đẩy mạnh các giải pháp đấu tranh phòng, chống  tội phạm và tệ nạn xã hội; giảm thiểu tai nạn giao thông. Gắn kết chặt  chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với  nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được  hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới. Mọi người  dân đều có cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện. Thực hiện tốt chính  sách chăm sóc người có công trên cơ sở huy động mọi nguồn lực xã hội  kết hợp với nguồn lực của Nhà nước; bảo đảm người có công có mức sống từ  trung bình trở lên.
Giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động
Tạo  cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền  lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao  động. Huy động tốt nhất nguồn lực lao động để phục vụ công cuộc xây  dựng, phát triển đất nước. Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động  dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc  thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng.  Khuyến khích đầu tư xã hội tạo ra nhiều việc làm, nâng cao chất lượng  giáo dục nghề nghiệp. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về tiền  lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý. Điều chỉnh chính  sách dạy nghề, gắn đào tạo với sử dụng. Điều chỉnh chính sách xuất khẩu  lao động hợp lý. Hoàn thiện và thực hiện chính sách bảo hộ lao động.
Bảo  đảm an sinh xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù  hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng  cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều  kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc  những người gặp rủi ro trong cuộc sống. Phát triển và thực hiện tốt các  chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao  động, bệnh nghề nghiệp,... Chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền  an sinh xã hội của công dân. Đổi mới chính sách giảm nghèo theo hướng  tập trung, hiệu quả và tiếp cận phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhằm  bảo đảm an sinh xã hội cơ bản và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Tổ  chức tốt hơn việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản thiết yếu. Thực  hiện tốt các chính sách hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng chính sách, người  nghèo, nhân dân sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; phát triển nhà  ở xã hội cho người thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp, khu chế  xuất và sinh viên,... Phát triển đa dạng các hình thức từ thiện, đẩy  mạnh phong trào toàn dân tham gia giúp đỡ những người yếu thế.
Coi  trọng chăm sóc sức khoẻ nhân dân, công tác dân số - kế hoạch hoá gia  đình, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em; xây dựng gia đình hạnh  phúc
Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách dân  số - kế hoạch hoá gia đình, chế độ thai sản, nghỉ dưỡng, khám chữa  bệnh, bình đẳng giới. Thực hiện tốt chiến lược dân số, gia đình, chương  trình hành động vì trẻ em..., đầu tư nâng cao chất lượng dân số, chỉ số  phát triển con người, bảo đảm cân bằng tỉ lệ giới tính khi sinh và quyền  trẻ em. Huy động các nguồn lực, tiếp tục xây dựng, phát triển hệ thống  bệnh viện, trạm y tế, phòng khám bệnh. Phát triển hệ thống y tế dự phòng  và các dịch vụ y tế hiện đại. Phát triển y học dân tộc; có chính sách  khuyến khích thích đáng sản xuất và chữa bệnh bằng thuốc nam. Tiếp tục  bảo đảm công bằng, giảm chênh lệch mới trong tiếp cận chính sách chăm  sóc sức khoẻ nhân dân giữa các địa bàn, các nhóm đối tượng. Ngân sách  nhà nước dành cho y tế phải được điều chỉnh theo hướng đầu tư tập trung  cho các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng ven biển và hải đảo nhằm  tăng cường cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế, nhân lực, bảo đảm cơ hội  tiếp cận bình đẳng về chăm sóc sức khoẻ cho người dân. Có lộ trình khắc  phục tình trạng quá tải tại các bệnh viện lớn ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí  Minh và các thành phố lớn. Tiếp tục thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y  tế cho toàn dân và từng bước đổi mới, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế.
Có  chính sách hợp lý trong đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và đãi ngộ thoả  đáng đối với đội ngũ cán bộ y tế. Tiếp tục thực hiện chiến lược phát  triển con người, chính sách chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em.  Phát triển thể dục, thể thao toàn dân để góp phần nâng cao sức khoẻ cho  nhân dân, đồng thời làm cơ sở để phát triển thể thao thành tích cao.