X - TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN; BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG; CHỦ ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG THIÊN TAI, ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
											1 - Tình hình
Nhận thức về  tầm quan trọng của tài nguyên, khai thác và quản lý tài nguyên gắn với  bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu  được nâng lên và đã thu được một số kết quả bước đầu quan trọng. Nhà  nước và các cơ quan quản lý đã xây dựng và ban hành nhiều chính sách  quản lý và tăng cường đầu tư cho các lĩnh vực này. Đã thành lập được các  cơ quan nghiên cứu và dự báo, quản lý rủi ro. Hợp tác quốc tế về quản  lý tài nguyên, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai được  đẩy mạnh; đã tham gia nhiều tổ chức của thế giới về các lĩnh vực này.
Tuy  nhiên, tài nguyên chưa được quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả và  bền vững; một số loại tài nguyên bị khai thác quá mức dẫn tới suy thoái,  cạn kiệt. Ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng, có nơi nghiêm trọng;  việc khắc phục hậu quả về môi trường do chiến tranh để lại còn chậm. Đa  dạng sinh học suy giảm, nguy cơ mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trên  diện rộng, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, sức khoẻ  và đời sống nhân dân. Chất lượng công tác dự báo và quy hoạch còn nhiều  hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu phát triển, tính tổng thể, liên ngành,  liên vùng; chưa rõ trọng tâm, trọng điểm và nguồn lực thực hiện. Việc  ứng phó với biến đổi khí hậu còn bị động, lúng túng; thiên tai ngày càng  bất thường, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản. 
2 - Phương hướng, nhiệm vụ
Tăng  cường công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó  với biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững theo hướng bảo đảm tính  tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài,  trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp  với từng giai đoạn. Tài nguyên là tài sản quốc gia, nguồn lực quan trọng  của đất nước, phải được đánh giá đầy đủ, hạch toán trong nền kinh tế,  được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả  và bền vững, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng,  an ninh. Chú trọng sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, vật liệu  mới. Ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự  nhiên do chủ quan con người, nhất là do các dự án phát triển kinh tế gây  ra. Bảo vệ môi trường tự nhiên vừa là nội dung, vừa là mục tiêu phát  triển bền vững. Hạn chế, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng huỷ hoại,  làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các  khu công nghiệp, khu đô thị. Thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp phục  hồi môi trường sau khai thác khóang sản. Đảm bảo sự hài hoà giữa môi  trường tự nhiên với môi trường sống ở các khu công nghiệp, đô thị, dân  cư. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với bảo vệ môi trường, sử dụng  tiết kiệm và bảo vệ tài nguyên. Tăng cường phổ biến pháp luật và tuyên  truyền trong xã hội về bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên và ứng phó  với thiên tai, biến đổi khí hậu. Tích cực hợp tác quốc tế trong việc bảo  vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Đến  năm 2020, có bước chuyển biến cơ bản trong khai thác, sử dụng tài nguyên  theo hướng hợp lý, hiệu quả và bền vững, kiềm chế mức độ gia tăng ô  nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học nhằm bảo đảm chất lượng môi  trường sống, duy trì cân bằng sinh thái, hướng tới nền kinh tế xanh,  thân thiện với môi trường; về cơ bản, chủ động thích ứng với biến đổi  khí hậu, phòng tránh thiên tai, giảm phát thải khí nhà kính. 
Về quản lý tài nguyên
Nâng  cao trách nhiệm, hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên của cả  hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đẩy mạnh điều tra, đánh giá tiềm  năng, trữ lượng, giá trị kinh tế, thực trạng và xu hướng diễn biến của  các nguồn tài nguyên quốc gia, đặc biệt là tài nguyên khoáng sản, tài  nguyên nước, tài nguyên biển. Từng bước xác định, đánh giá các giá trị,  thiết lập tài khoản, hạch toán trong nền kinh tế đối với các loại tài  nguyên quốc gia. Quy hoạch, quản lý và khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu  quả và bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia. Hạn chế tối đa, từng bước  tiến tới chấm dứt xuất khẩu khoáng sản thô và chỉ qua chế biến sơ, thúc  đẩy chế biến sâu. Đối với loại khoáng sản chiến lược đặc thù như than,  dầu khí,... cần có chính sách cụ thể, cân đối giữa nhập khẩu và xuất  khẩu. Đổi mới công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; xây dựng cơ  sở dữ liệu về đất đai; thúc đẩy sử dụng đất tiết kiệm, hợp lý và có hiệu  quả; kết hợp bảo vệ diện tích, độ phì nhiêu của đất canh tác nông  nghiệp. Quy hoạch khai thác, bảo vệ nguồn nước, tăng cường quản lý nguồn  nước theo lưu vực sông; chủ động hợp tác với các nước và các tổ chức  quốc tế trong việc bảo vệ nguồn nước xuyên quốc gia. Kiểm soát các hoạt  động khai thác; đấu tranh, ngăn chặn tình trạng đánh bắt mang tính huỷ  diệt nhằm bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, đặc biệt là vùng gần bờ. Thúc đẩy  phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, các nguyên liệu,  nhiên liệu, vật liệu mới thay thế các nguồn tài nguyên truyền thống.
Về bảo vệ môi trường
Hoàn  thiện hệ thống pháp luật, ban hành các chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi  trường, ngăn chặn, xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt tình trạng gây ô  nhiễm môi trường, tăng cường phòng ngừa và kiểm soát các nguồn gây ô  nhiễm môi trường. Ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi  trường tự nhiên. Hạn chế tiến tới khắc phục căn bản tình trạng ô nhiễm  môi trường của các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, khu đô thị, làng  nghề, các lưu vực sông, không để phát sinh thêm những cơ sở gây ô nhiễm  môi trường nghiêm trọng. Đẩy mạnh xã hội hoá cùng với việc bố trí nguồn  lực từ ngân sách nhà nước đầu tư cho các công trình trọng điểm phục hồi  môi trường dân sinh.
Về phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu
Chủ  động xây dựng, triển khai và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các  chương trình, kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên  tai cho từng giai đoạn. Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai,  giám sát biến đổi khí hậu và tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ. Đầu tư thích  đáng cho các công trình trọng điểm quốc gia, các chương trình ứng phó  với biến đổi khí hậu. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm chủ động  phòng, chống, hạn chế tác động của triều cường, ngập lụt, xâm nhập mặn  do nước biển dâng đối với vùng ven biển, nhất là vùng đồng bằng Sông Cửu  Long, đồng bằng Sông Hồng, duyên hải miền Trung, trước hết là khu vực  Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Cà Mau và các thành phố ven biển khác.  Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm mức phát thải khí nhà kính.
X - TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG, AN NINH, BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TÌNH HÌNH MỚI
1 - Tình hình
Trong  bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều phức tạp, chúng ta vẫn giữ vững  độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo đảm  quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Nhận thức về mục tiêu,  yêu cầu bảo vệ Tổ quốc; về vị trí, vai trò của quốc phòng, an ninh trong  tình hình mới; về quan hệ đối tác, đối tượng có bước phát triển. Chủ  động, kiên quyết đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được chủ  quyền, biển, đảo, vùng trời và giữ được hoà bình, ổn định để phát triển  đất nước. Chủ trương, giải pháp trong chiến lược quốc phòng, quân sự,  chiến lược an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội tiếp tục được bổ  sung, hoàn thiện. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn kết chặt chẽ với thế  trận an ninh nhân dân tiếp tục được tăng cường, củng cố, nhất là trên  các địa bàn chiến lược quan trọng; sức mạnh về mọi mặt của Quân đội nhân  dân và Công an nhân dân được tăng cường. Kết hợp có hiệu quả giữa nhiệm  vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ  nghĩa; giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đấu tranh làm  thất bại âm mưu "diễn biến hoà bình", hoạt động phá hoại, gây rối, bạo  loạn lật đổ của các thế lực thù địch; bước đầu đối phó có hiệu quả với  mối đe doạ an ninh phi truyền thống, kiềm chế sự gia tăng của tội phạm.
Tuy  nhiên, nhận thức của một số cán bộ các cấp, các ngành về nhiệm vụ bảo  vệ Tổ quốc trong tình hình mới chưa thật đầy đủ, sâu sắc. Kết hợp giữa  phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh trên một số  lĩnh vực, địa bàn có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Việc quán triệt và triển  khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, các nghị quyết của Đảng, pháp  luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh của một số cấp uỷ, chính quyền  có nơi, có lúc chưa kiên quyết, triệt để; còn thiếu những giải pháp mang  tính chiến lược, tổng thể. Cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc phòng,  an ninh chưa hoàn thiện.
2 - Phương hướng, nhiệm vụ
Mục  tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là : Phát huy mạnh mẽ sức mạnh  tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị để bảo vệ vững chắc  độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ  Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc  đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ lợi ích quốc  gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hoá dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình,  ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Củng  cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự,  an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước,  của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và  Công an nhân dân là nòng cốt. Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh;  xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững  chắc. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá  của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận  điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm; sẵn sàng ứng phó với các mối  đe doạ an ninh phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an  ninh mạng. Kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn  lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời  của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát  triển bền vững đất nước. Giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải  pháp hoà bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế.
Kết  hợp chặt chẽ kinh tế, văn hoá, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc  phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội trong từng chiến lược, quy  hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng  xa, biên giới, biển, đảo. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót  trong việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất  là địa bàn chiến lược. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối  ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. Xây dựng "thế  trận lòng dân", tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân  và nền an ninh nhân dân. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh,  xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu  các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột  biến. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy,  tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hoá một số quân chủng,  binh chủng, lực lượng quan trọng; vững mạnh về chính trị, nâng cao chất  lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc,  với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ  quốc trong tình hình mới, cần tăng cường nguồn lực cho quốc phòng, an  ninh. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng  lưỡng dụng; tăng cường nguồn lực, tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại  cho lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu bảo  vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng  đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng  bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an  ninh của Tổ quốc trong mọi tình huống. Nâng cao chất lượng công tác dự  báo tình hình. Kiên quyết giữ vững ổn định chính trị, ổn định kinh tế -  xã hội trong mọi tình huống. Xây dựng, củng cố đường biên giới trên bộ  hoà bình, hữu nghị; nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực  lượng làm nhiệm vụ ở biên giới, biển, đảo.
Để thực  hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phải tiếp tục giữ  vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng,  sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân,  Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh công tác thông  tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn Đảng,  toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên  và từng người dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Phát huy sức mạnh của  khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, do Đảng lãnh  đạo, Nhà nước quản lý, lực lượng vũ trang làm nòng cốt trong sự nghiệp  bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về  quốc phòng, an ninh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong  lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
XI - NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1 - Tình hình
Thực  hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, trong thời gian qua, hoạt  động đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta đã đạt được những kết quả  quan trọng. Môi trường hoà bình thuận lợi cho phát triển, độc lập, chủ  quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững. Quan hệ  đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Quan hệ với các  nước láng giềng và các nước trong ASEAN được củng cố. Đã thiết lập quan  hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với nhiều đối tác quan trọng.  Hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, góp phần quan trọng vào việc tăng cường  nguồn lực cho phát triển, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất  nước. Chủ động, tích cực tham gia các công việc chung của cộng đồng quốc  tế, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của đất  nước. Đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân  được triển khai đồng bộ, có bước phát triển mới.
Nhận  thức đúng về xu thế của thời đại và cục diện thế giới, khu vực, Đảng,  Nhà nước đã có định hướng chỉ đạo và các chính sách đúng đắn, kịp thời  trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc. Nhiều chủ trương, giải pháp xử lý  các vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề Biển Đông, đã tạo được sự đồng  thuận cao trong toàn Đảng, toàn dân và được dư luận quốc tế ủng hộ.
Tuy  nhiên, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế có mặt chưa chủ động và  hiệu quả chưa cao. Chưa có giải pháp đồng bộ, hữu hiệu để hạn chế các  tác động tiêu cực trong quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Trong nhận  thức và chỉ đạo thực tiễn có lúc chưa theo kịp những chuyển biến mau lẹ,  phức tạp của tình hình thế giới và khu vực. Sự phối hợp, kết hợp giữa  các ngành, các địa phương còn thiếu chặt chẽ. Công tác nghiên cứu chiến  lược, dự báo tình hình còn hạn chế.
2 - Phương hướng, nhiệm vụ
Bảo  đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc  cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất  quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát  triển; đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ đối ngoại; chủ động và  tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có  trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu  tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hoà  bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển  đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ  quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà  nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của  đất nước và góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và  tiến bộ xã hội trên thế giới.
Nâng cao hiệu quả các  hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều  sâu. Chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa  phương. Kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can  thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,  toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của đất nước.  Tiếp tục hoàn thành việc phân định biên giới trên bộ, thúc đẩy giải  quyết các vấn đề trên biển trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật  pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 và quy tắc  ứng xử của khu vực. Chú trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị,  truyền thống với các nước láng giềng, thúc đẩy quan hệ với các đối tác  lớn, đối tác quan trọng. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các  nước ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh. Mở rộng, làm sâu sắc hơn và  nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và  ngoại giao nhân dân.
Triển khai mạnh mẽ định hướng  chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Bảo đảm hội nhập quốc  tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập  trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá  trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội  nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo  thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa  đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi  vào thế bị động, đối đầu.
Nâng cao hiệu quả hội nhập  kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, xây dựng và  triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối  tác kinh tế, thương mại quan trọng, ký kết và thực hiện hiệu quả các  hiệp định thương mại song phương, đa phương mới trong một kế hoạch tổng  thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước. Đẩy mạnh và  làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược  và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với phát triển và an ninh của  đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất. Chủ động tham  gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và  Liên hợp quốc. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc  phòng, an ninh, trong đó có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức  cao hơn như hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc, diễn tập chung  và các hoạt động khác. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn  hoá, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực  khác.
Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến  lược, tham mưu về đối ngoại; đổi mới nội dung, phương pháp tuyên truyền  đối ngoại; chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối  ngoại; bồi dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp.
Bảo  đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước  đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại  của Đảng, ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao  chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hoá; giữa đối ngoại  với quốc phòng, an ninh.
XII - PHÁT HUY SỰC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
1 - Tình hình
Khối  đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường  trong bối cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trận Tổ quốc  Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có nhiều đổi mới cả về nội dung và  phương thức hoạt động; phát huy ngày càng tốt hơn vai trò tập hợp, xây  dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; cùng Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ  quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tham gia xây dựng  Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần tích cực vào những  thành tựu chung của đất nước. Đạt được kết quả trên là do Đảng và Nhà  nước luôn chủ trương nhất quán, phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết  toàn dân tộc.
Tuy nhiên, sức mạnh đại đoàn kết toàn  dân tộc chưa được phát huy đầy đủ, có lúc, có nơi chưa phát huy được vai  trò, sức mạnh của nhân dân. Chưa đánh giá và dự báo chính xác những  diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp  nhân dân để có chủ trương phù hợp. Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại  đoàn kết toàn dân tộc, về quyền và lợi ích hợp pháp của các giai cấp,  tầng lớp nhân dân chưa được kịp thời thể chế hoá, hoặc đã thể chế hoá  nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và  các đoàn thể nhân dân có lúc, có nơi chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân  và cơ sở, còn có biểu hiện hành chính hoá, chưa thiết thực, hiệu quả.  Những hạn chế, khuyết điểm đó là do : Một bộ phận cán bộ, đảng viên,  công chức chưa thật sự tôn trọng, lắng nghe ý kiến để giải quyết kịp  thời, có hiệu quả những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Hệ  thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thể chế hoá đường lối, chủ  trương, quan điểm của Đảng về Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân  còn thiếu và chưa đồng bộ. 
2 - Phương hướng, nhiệm vụ
Đại  đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam,  là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng  cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp  công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo.  Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để  xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà  bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, "dân giàu, nước mạnh, dân  chủ, công bằng, văn minh" làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác  biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh  thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết  mọi người Việt Nam, tăng cường quan hệ máu thịt của nhân dân với Đảng,  Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tiếp  tục thể chế hoá và cụ thể hoá các quan điểm, đường lối, chủ trương,  chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và thực  hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân  trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; khắc phục những hạn  chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả thực chất hoạt động giám sát, phản biện  xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. 
Đại  đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ  lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp  pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và  tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những  thành quả của công cuộc đổi mới. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ  sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp uỷ đảng  và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp  thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của  nhân dân; tin dân, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến khác; có hình  thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến,  nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Mặt trận Tổ  quốc và các đoàn thể nhân dân; trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống  hiến của nhân dân.
Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi  dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng  cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề  nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân; bảo đảm  việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc, nhà ở cho  công nhân; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo  hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,... để bảo vệ quyền  lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân.
Xây  dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình  phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Hỗ trợ, khuyến khích  nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và ứng dụng  tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển  sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao năng suất lao động trong nông  nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về  điện, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin..., cải thiện chất lượng cuộc  sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc  xoá đói, giảm nghèo, làm giàu hợp pháp.
Xây dựng đội  ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát  triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động  nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm  chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi  ngộ và tôn vinh xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có cơ chế, chính  sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư  vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học  trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp  luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. 
Xây  dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có trình độ quản lý, kinh  doanh giỏi, có đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội cao. Phát huy  tiềm năng và vai trò tích cực, sáng tạo của đội ngũ doanh nhân. Có cơ  chế, chính sách bảo đảm quyền lợi của đội ngũ doanh nhân. Tôn vinh những  doanh nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Đổi  mới nội dung, phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng,  truyền thống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, xây dựng đạo đức, lối sống  lành mạnh cho thế hệ trẻ. Có cơ chế, chính sách phù hợp tạo điều kiện  học tập, nghiên cứu, lao động, giải trí, phát triển trí tuệ, thể lực cho  thế hệ trẻ. Khuyến khích, cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão,  xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại. Phát huy vai  trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thu hút  rộng rãi thanh niên, thiếu niên và nhi đồng tham gia các tổ chức do Đoàn  Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm nòng cốt và phụ trách.
Nâng  cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Nghiên  cứu, bổ sung và hoàn thiện các luật pháp, chính sách đối với lao động  nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của  mình. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và xử lý nghiêm minh  theo pháp luật các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại nhân phẩm phụ nữ.
Đảng,  Nhà nước có cơ chế, chính sách tạo điều kiện, đồng thời động viên cựu  chiến binh tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân  và chế độ xã hội chủ nghĩa, giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống,  tích cực tham gia giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ  nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ; tích cực tham gia đấu tranh  phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm và các tệ nạn xã  hội; góp phần xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, xây dựng Đảng, chính  quyền trong sạch, vững mạnh.
Quan tâm chăm sóc sức  khoẻ, tạo điều kiện để người cao tuổi hưởng thụ văn hoá, tiếp cận thông  tin, sống vui, sống khoẻ, sống hạnh phúc. Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm  sống, lao động, học tập của người cao tuổi trong xã hội và gia đình.  Tiếp tục xây dựng gia đình "ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền,  vợ chồng hoà thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau"; giúp đỡ người  cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa.
Đoàn kết các  dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp  tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong  phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội vùng dân tộc thiểu số, nhất là các  vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung. Nâng cao  chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây  dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Tăng cường kiểm tra, giám  sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của  Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm  mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Tiếp  tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy  những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo  điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ  của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp  luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành  vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết  dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của  pháp luật.
Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách để hỗ  trợ, giúp đỡ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, phát  triển kinh tế, góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta  với nhân dân các nước; được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi  ích chính đáng; tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc  văn hoá dân tộc; có cơ chế, chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ  quốc, đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tiếp tục  tăng cường củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của  Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò  nòng cốt trong tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,  thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát và phản biện  xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động ngoại giao nhân dân  góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
XIII - PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN
1 - Tình hình
Đảng  và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật  nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ  của nhân dân. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân  được xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp  luật. Khẳng định rõ các quyền con người, quyền công dân về chính trị,  dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo  đảm theo Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và  trách nhiệm đối với xã hội. ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng  lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân, ý thức về dân chủ  trong xã hội được nâng lên. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và  Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có tiến bộ.
Quyền  làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời  sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong  lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nhiều cấp uỷ đảng, chính quyền đã lắng  nghe, tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, tôn trọng các loại ý  kiến khác nhau. 
Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự  phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích  hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước  quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết.
Đạt  được kết quả trên là do Đảng và Nhà nước coi trọng việc đề ra và tổ chức  chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật, quy chế, quy  định mới nhằm phát huy hơn nữa dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền  làm chủ của nhân dân. Hiến pháp năm 2013 quy định rõ : Nhà nước bảo đảm  và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và  bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Tuy nhiên,  nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn  hạn chế. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương  pháp luật trong xây dựng và thực hiện dân chủ còn tồn tại ở nhiều nơi.  Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm.  Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình  thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội  bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Những  hạn chế, khuyết điểm nêu trên do nhiều nguyên nhân : Hệ thống pháp  luật, cơ chế, quy chế, tổ chức và các điều kiện để thực thi dân chủ,  quyền làm chủ của nhân dân còn thiếu và chưa đồng bộ. Không ít cấp uỷ  đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa là tấm gương về phát huy  dân chủ trong xã hội.
2 - Phương hướng, nhiệm vụ
Tiếp  tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà  nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,  pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích  chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải  được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống  xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa  ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ  nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình  thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực  tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân.
Cụ thể hoá và  nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ  đại diện. Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công  dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm,  nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở  cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Đảng và  Nhà nước có cơ chế, chính sách bảo vệ và bảo đảm thực hiện tốt quyền con  người, quyền công dân.
Thể chế hoá và thực hiện tốt phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát".
Để  thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ  trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội. Đẩy  mạnh dân chủ hoá xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò  chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tổ  chức thực hiện tốt Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ  quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ  quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân góp ý xây dựng Đảng,  xây dựng chính quyền; Quy định về giám sát đảng viên là cán bộ thuộc  diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và các quy định, quy chế khác.
Phát  huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm  công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán  những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những  hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn  xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân  dân.
XIV - HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1 - Tình hình
Quan  điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung,  hoàn thiện một bước quan trọng và cơ bản. Nhận thức của các cấp, các  ngành, của cán bộ, đảng viên và nhân dân về xây dựng Nhà nước pháp quyền  xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân có bước phát  triển. Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định : Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa  Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân  dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và  đội ngũ trí thức.
Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà  nước được quy định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013 : quyền lực nhà  nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ  quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư  pháp. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của tổ  chức bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn và có những bước tiến trong  hoạt động. Vai trò của pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà  nước, trong quản lý xã hội ngày càng được đề cao. Cơ chế phân công, phối  hợp và kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước được  xác định rõ hơn và trong tổ chức thực hiện đã có những bước tiến nhất  định. 
Quốc hội có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng  hoạt động. Hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện. Hoạt động giám  sát của Quốc hội đã tập trung vào những vấn đề bức thiết, quan trọng  nhất của đất nước. Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh  tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, các dự án, công trình trọng  điểm quốc gia có chất lượng và thực chất hơn. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,  Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội có nhiều đổi mới về nội dung,  phương pháp công tác; trách nhiệm các đại biểu Quốc hội được nâng cao  hơn.
Quản lý, điều hành của Chính phủ, các bộ tập  trung hơn vào quản lý vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn,  quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và đạt kết quả  tích cực bước đầu. Tổ chức thí điểm đổi mới về tổ chức chính quyền địa  phương (không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường, chính quyền  đô thị) được tập trung chỉ đạo và tổng kết, rút kinh nghiệm.
Nhiều  chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp được thể chế trong  Hiến pháp, pháp luật và được triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt kết  quả quan trọng. Tổ chức bộ máy của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân  dân, các cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn; chất lượng hoạt  động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá  nhân, hạn chế tình trạng oan, sai.
Tuy nhiên, chưa  chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát  quyền lực nhà nước ở các cấp. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các  thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như  Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm chưa  thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Chưa khắc phục được sự chồng chéo,  vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng tới  sự thống nhất quyền lực nhà nước và hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Hệ  thống pháp luật còn chồng chéo, thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp  ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền; tính công khai, minh bạch, khả  thi, ổn định còn hạn chế. Kỷ cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước,  thực thi công vụ còn nhiều yếu kém. Cải cách hành chính còn chậm, thiếu  đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; thủ tục hành chính còn phức tạp, phiền  hà, đang là rào cản lớn đối với việc tạo lập môi trường xã hội, môi  trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch, hiệu quả cho sự phát triển. Tổ  chức và hoạt động của chính quyền địa phương chậm đổi mới; hiệu lực,  hiệu quả ở nhiều nơi chưa cao. Tính dân chủ và pháp quyền, trách nhiệm  giải trình của các cấp chính quyền chưa được quy định rõ ràng. Việc  triển khai một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn chậm; vẫn còn tình trạng  nhũng nhiễu, tiêu cực, oan, sai, tồn đọng án, bỏ lọt tội phạm. Công tác  phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong các cơ quan nhà nước, trong đội  ngũ cán bộ, công chức chưa đạt yêu cầu đề ra. Tham nhũng, lãng phí vẫn  còn nghiêm trọng.
Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên  do nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là : Xây dựng Nhà nước pháp  quyền xã hội chủ nghĩa là vấn đề mới đối với nước ta. Sự phân định giữa  vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước còn  những nội dung chưa rõ; phương thức và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với  Nhà nước ở các cấp còn nhiều điểm chưa được chế định rõ và phù hợp với  nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền.
2 - Phương hướng, nhiệm vụ
Tiếp  tục xác định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh  đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị
Trong  tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các  nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực, đạt kết  quả cao hơn. Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập  pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới kinh tế.
Hoàn  thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành,  nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Hoàn  thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Nhà nước theo quy  định của Hiến pháp năm 2013, đáp ứng các đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền  xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định  hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nhà nước được tổ chức và  hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và  pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Phân định rõ hơn vai  trò và hoàn thiện cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và thị  trường.
Lãnh đạo việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện  và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật theo các nguyên tắc được quy  định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà  nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân kiểm tra, giám sát quyền  lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây  dựng nền tảng đạo đức xã hội.
Xác định rõ cơ chế phân  công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát  quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập  pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất;  xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. Đồng thời, quy  định rõ hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát các quyền ở  các cấp chính quyền. Tiếp tục phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm  giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp  chính quyền địa phương.
Hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước
Đổi  mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ  quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao  nhất. Quốc hội thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề  quan trọng của đất nước và giám sát tối cao, nhất là đối với việc quản  lý, sử dụng các nguồn lực của đất nước.
Tổ chức thực  hiện tốt Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, bảo  đảm cơ cấu, nâng cao chất lượng đại biểu, tăng số lượng đại biểu chuyên  trách một cách hợp lý.
Hoàn thiện cơ chế để nâng cao  chất lượng, hiệu quả hoạt động, nhất là hoạt động lập pháp của Quốc hội,  đại biểu Quốc hội, cơ chế giám sát, đánh giá đối với người giữ chức vụ  do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa giám  sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các  tổ chức chính trị - xã hội và giám sát của nhân dân. 
Hoàn  thiện cơ cấu tổ chức Chính phủ, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ,  quyền hạn của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực  hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Đẩy  mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước theo  hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng  động, phục vụ nhân dân, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Hoàn thiện thể  chế hành chính dân chủ - pháp quyền, quy định trách nhiệm và cơ chế giải  trình của các cơ quan nhà nước; giảm mạnh và bãi bỏ những thủ tục hành  chính gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp. Đề cao trách nhiệm và  đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong  chỉ đạo và thực thi công vụ của cán bộ, công chức; đẩy nhanh việc áp  dụng chính phủ điện tử.
Tiếp tục đẩy mạnh việc thực  hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững  mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công  dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi  ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Phân định rành mạch thẩm  quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong tổ  chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Tổ chức toà  án theo cấp thẩm quyền xét xử; bảo đảm nguyên tắc độc lập, nguyên tắc  tranh tụng trong xét xử, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, của  đương sự.
Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công  tố và kiểm sát hoạt động tư pháp và được tổ chức phù hợp với hệ thống  tổ chức của Toà án; tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động  điều tra. 
Kiện toàn tổ chức cơ quan điều tra, xác  định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nâng cao chất lượng, hiệu quả  hoạt động của cơ quan điều tra.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của luật sư và các tổ chức bổ trợ tư pháp.
Về  chính quyền địa phương : Trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất, thông  suốt, hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính quốc gia, xác định rõ thẩm  quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước của mỗi cấp chính quyền địa phương.  Việc hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của chính quyền địa  phương gắn kết hữu cơ với đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của Mặt  trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp. Hoàn thiện mô  hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm ở nông thôn, đô  thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt theo luật định.
Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
Đảng  tập trung lãnh đạo về đường lối, chủ trương, xây dựng tiêu chí, tiêu  chuẩn, cơ chế, chính sách cụ thể. Đẩy mạnh dân chủ hoá công tác cán bộ,  quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây  dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị vững vàng, có  trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn  mới. Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở  cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản lý. Hoàn  thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc  thực thi công vụ; xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu  cơ quan hành chính.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung chính  sách đối với cán bộ, công chức theo hướng khuyến khích cán bộ, công chức  nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ, hoàn thành  tốt nhiệm vụ; khắc phục chế độ đãi ngộ theo kiểu "bình quân".
Đẩy  mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm  trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức.
XV - XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG
1 - Tình hình
Cụ  thể hoá thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về công tác xây dựng  Đảng, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã thảo  luận và thống nhất rất cao việc ban hành Nghị quyết "Một số vấn đề cấp  bách về xây dựng Đảng hiện nay" (sẽ có báo cáo chuyên đề việc thực hiện  Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI gửi đại biểu Đại hội XII).
Nhìn  chung, các cấp uỷ, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở đã tập trung  lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp được đề ra trong  Nghị quyết Trung ương 4. Quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã  đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, góp phần siết lại kỷ luật,  kỷ cương, có tác dụng cảnh báo, răn đe, cảnh tỉnh và ngăn chặn các hành  vi tiêu cực, tạo tiền đề đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, đưa tự phê  bình và phê bình trở thành công việc thường xuyên trong Đảng. Đội ngũ  cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã chú trọng nâng cao tinh thần trách  nhiệm, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, đổi mới lề lối làm việc;  nghiêm khắc với mình hơn, giữ gìn đạo đức, lối sống; bước đầu tự sửa  chữa khuyết điểm, tự điều chỉnh hành vi và các hoạt động trong công tác  và trong cuộc sống của mình, của gia đình, vợ con và người thân.
Đã  nhận dạng rõ hơn, sâu sắc hơn, cảnh báo và bước đầu ngăn chặn những  biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán  bộ, đảng viên. Bước đầu kiềm chế, ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng  phí. Một số vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp đã được tập trung  chỉ đạo điều tra, xét xử nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật,  được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ. Công  tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ được đẩy mạnh hơn.  Quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã có tác động  thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, phát  triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân.
Đạt  được kết quả nói trên là do Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI là chủ  trương đúng đắn và kịp thời, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; đã được Bộ  Chính trị, Ban Bí thư và cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp tập trung chỉ đạo  thực hiện với quyết tâm chính trị cao, chặt chẽ, cán bộ, đảng viên đồng  tình, thống nhất cao và thực hiện nghiêm túc.
Tuy  nhiên, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 chưa đạt kết quả như mong  đợi. Trong quá trình chuẩn bị kiểm điểm, nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng và  tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị góp ý cho cấp trên (nhất là cho cá  nhân), chất lượng còn hạn chế. Một số đồng chí chưa nhìn nhận đúng mức  khuyết điểm và trách nhiệm của mình trước những hạn chế, khuyết điểm  trong lĩnh vực được giao phụ trách. Nhìn chung, khuyết điểm khá phổ biến  là tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm. Trên một số vấn đề, qua  kiểm điểm của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp từ Trung ương đến cơ sở vẫn  chưa làm rõ thực chất, mức độ nghiêm trọng của tình hình, xảy ra ở đâu,  ai chịu trách nhiệm, như : tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo  đức, lối sống; tình trạng chạy chức, chạy tội, lợi ích nhóm,... Một số  quy định, quy chế để triển khai thực hiện Nghị quyết chậm được ban hành,  một số vụ việc phức tạp, gây bức xúc trong nhân dân chậm được xem xét,  xử lý. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của  một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên bước đầu được ngăn chặn, nhưng  chưa bị đẩy lùi. Công tác thông tin, tuyên truyền về thực hiện Nghị  quyết có lúc, có nơi chưa đầy đủ, kịp thời, chưa định hướng được dư  luận.
Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên chủ yếu là  do các vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay là những vấn đề quan  trọng, khó và đã kéo dài nhiều nhiệm kỳ, chưa có những giải pháp đủ mạnh  phù hợp để khắc phục, giải quyết.
Đánh giá chung, công tác xây dựng Đảng 5 năm qua đã đạt được những kết quả quan trọng:
Công  tác xây dựng Đảng về chính trị trước tình hình mới tiếp tục được coi  trọng. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định  mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi  mới; chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội. Coi  trọng giữ vững bản chất giai cấp công nhân và các nguyên tắc hoạt động  của Đảng. Năng lực hoạch định đường lối, chính sách có bước tiến bộ.
Chất  lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận có bước được nâng lên.  Công tác tư tưởng được coi trọng và tăng cường, góp phần tạo sự thống  nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Tích cực đấu tranh với hoạt  động "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch; chủ động phòng  ngừa, đấu tranh phê phán, ngăn chặn những biểu hiện "tự diễn biến", "tự  chuyển hoá" trong nội bộ. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý  luận được đẩy mạnh hơn. Trong nhiệm kỳ đã tiến hành tổng kết 20 năm thực  hiện Hiến pháp năm 1992; tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua  30 năm đổi mới và tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TW của  Bộ Chính trị khóa VII về công tác lý luận...
Coi  trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân  trong cán bộ, đảng viên. Việc thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính  trị về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đạt kết quả  bước đầu quan trọng.
Tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng,  Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục  được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ,  mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân  định, điều chỉnh phù hợp hơn. Chỉ đạo việc thực hiện thí điểm một số mô  hình đổi mới về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương. Chất lượng đội  ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị từng bước được  nâng lên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Công  tác xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, việc phát triển và  nâng cao chất lượng đảng viên đã được các cấp uỷ, tổ chức đảng tập  trung chỉ đạo thực hiện, nhất là đối với những tổ chức cơ sở đảng yếu  kém, có nhiều khó khăn, những địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, vùng  biên giới; thu hẹp đáng kể tình trạng chi bộ sinh hoạt ghép hoặc chưa  có chi bộ ở các thôn, ấp, bản, làng. Số đảng viên mới kết nạp là đoàn  viên thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, nữ, trí thức, học sinh, sinh viên,  dân tộc thiểu số, tôn giáo, người lao động trong các thành phần kinh tế  và chủ doanh nghiệp tư nhân tăng hơn so với khóa trước. Tuổi bình quân  kết nạp Đảng trong nhiệm kỳ này trẻ hơn so với trước.
Nhiều  chủ trương, nguyên tắc, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ  được thể chế, cụ thể hoá bằng quy chế, quy định, quy trình bảo đảm dân  chủ, chặt chẽ hơn. Thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm cán bộ, trọng tâm  là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, được dư luận đồng tình, có  tác dụng, hiệu quả. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử  dụng cán bộ về cơ bản đã thực hiện theo quy hoạch. Tiến hành xây dựng  quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức  danh chủ chốt của Đảng, Nhà nước. Quy định và thực hiện chế độ bồi  dưỡng, cập nhật kiến thức mới đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp  và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo chức danh có tác dụng tốt. Việc thực  hiện chính sách cán bộ trong hệ thống chính trị tiếp tục được quan tâm.
Công  tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm chỉ  đạo, tổ chức thực hiện và đạt nhiều kết quả, góp phần xây dựng, bảo vệ  Đảng, bảo vệ chế độ, bảo đảm an ninh chính trị.
Công  tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng được tăng cường, có hiệu lực,  hiệu quả hơn, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng  Đảng; tham mưu, đề xuất, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản  của Đảng đồng bộ, phù hợp. Tiếp tục quan tâm củng cố, kiện toàn uỷ ban  kiểm tra, cơ quan uỷ ban kiểm tra và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ  kiểm tra các cấp.
Đảng và Nhà nước đã thể hiện quyết  tâm chính trị trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng  phí. Nhận thức về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được nâng  lên trong các cấp uỷ, các ngành, các cấp, các tổ chức trong hệ thống  chính trị, trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân.  Tiếp tục ban hành các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà  nước; tăng cường hoạt động của Ban Chỉ đạo và các đơn vị chuyên trách  phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng đặc  biệt nghiêm trọng, phức tạp được phát hiện, điều tra, xử lý nghiêm minh,  được dư luận đồng tình, ủng hộ, tạo sức mạnh răn đe, phòng ngừa tham  nhũng.
Công tác dân vận được quan tâm và có bước đổi  mới cùng với việc ban hành, thực hiện nhiều chủ trương, chính sách phát  triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, xoá đói, giảm nghèo; nâng cao đời  sống vật chất, tinh thần của nhân dân. áp dụng nhiều hình thức vận  động, tập hợp nhân dân thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách,  pháp luật của Nhà nước và tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà  nước trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước,  các hoạt động ngoại giao nhân dân và công tác vận động người Việt Nam ở  nước ngoài.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ  thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Đã ban hành nhiều quy chế, quy  định, quy trình công tác để thực hiện, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo  của Đảng, đồng thời phát huy vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách  nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là vai trò của Nhà  nước và Mặt trận Tổ quốc. Việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của  các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở có bước tiến bộ.  Thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với phát huy tính chủ động,  sáng tạo và trách nhiệm của cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng  đầu. Coi trọng việc phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng,  đảng viên, cấp uỷ viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ  quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; nói đi đôi với làm. Có những  đổi mới trong việc ra nghị quyết, coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ  chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị  quyết, chỉ thị của Đảng. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong  Đảng theo hướng giảm bớt thủ tục, giấy tờ, hội họp.
Với  những kết quả quan trọng nêu trên, Đảng ta giữ vững được bản lĩnh chính  trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc  lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới. Đảng ta  xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đạt  được những kết quả đó là do Đảng ta luôn xác định nhiệm vụ xây dựng  Đảng là then chốt; đa số cán bộ, đảng viên có quan điểm, lập trường tư  tưởng vững vàng, giữ vững phẩm chất đạo đức, vai trò tiên phong, gương  mẫu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; thu hút sự tham gia của hệ  thống chính trị và nhân dân vào việc chỉnh đốn, xây dựng Đảng trong  sạch, vững mạnh.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng trong 5 năm qua còn nhiều hạn chế, khuyết điểm:
Dự  báo, hoạch định, lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà  nước còn nhiều hạn chế. Việc thể chế hoá, xây dựng chương trình hành  động và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận  của Đảng chưa kịp thời, đồng bộ, cụ thể và hiệu quả chưa cao. Năng lực  lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, thậm chí  có nơi mất sức chiến đấu; công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng  viên ở một số nơi chưa được quan tâm thường xuyên, sinh hoạt đảng chất  lượng chưa cao, tự phê bình và phê bình yếu.
Chất  lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận chưa cao. Chậm khắc phục có  hiệu quả những hạn chế của công tác tư tưởng như thiếu sắc bén, chưa  thuyết phục. Đấu tranh chống âm mưu, hoạt động "diễn biến hoà bình" của  các thế lực thù địch, phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" còn  bị động, hiệu quả chưa cao. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý  luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Hệ thống, chương trình  đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị còn nhiều bất hợp lý. Phương pháp  giảng dạy, học tập lý luận chính trị còn lạc hậu.
Việc  triển khai thực hiện nội dung các nghị quyết, chỉ thị, chủ trương,  chính sách của Đảng về rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, nâng cao  năng lực, trình độ của cán bộ, đảng viên chưa thực sự tích cực, đồng bộ,  thường xuyên, một số nơi thực hiện chưa nghiêm túc. Việc học tập và làm  theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa đều, chưa đi vào chiều sâu ở  nhiều ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; một số nơi thực hiện còn mang  tính hình thức. 
Tổ chức bộ máy của Đảng và toàn hệ  thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một  số tổ chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhiều tổ  chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; thẩm  quyền, trách nhiệm của cán bộ, công chức, nhất là trách nhiệm của người  đứng đầu chưa rõ. Mô hình tổ chức đảng ở một số lĩnh vực chưa thật hợp  lý, nhất là ở các tập đoàn, tổng công ty,...
Việc  kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan, tổ chức nhà nước, các tổ chức  chính trị - xã hội gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội  ngũ cán bộ, công chức kết quả còn thấp. Số lượng cán bộ, công chức không  những không giảm mà lại tăng, nhất là ở các đơn vị sự nghiệp công lập  và công chức, cán bộ chuyên trách, không chuyên trách xã, phường, thị  trấn. Việc đổi mới công tác cán bộ chưa có đột phá lớn. Đánh giá cán bộ  vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có những tiêu chí cụ  thể và giải pháp khoa học để khắc phục. Tình trạng chạy chức, chạy  quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp,... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Đội  ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược chưa được tập trung xây dựng.  Chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu, tư vấn  cấp chiến lược. Công tác quy hoạch ở một số nơi còn khép kín, chưa bảo  đảm sự liên thông, gắn kết. Tỉ lệ cán bộ lãnh đạo và cấp uỷ là người dân  tộc thiểu số, cán bộ nữ, cán bộ trẻ, việc luân chuyển bố trí một số  chức danh cán bộ lãnh đạo không là người địa phương thực hiện chưa đạt  yêu cầu. Những hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ là một trong  những điểm yếu, cản trở sự phát triển.
Công tác bảo  vệ chính trị nội bộ có mặt còn hạn chế. Chưa nắm và giải quyết tốt vấn  đề chính trị hiện nay, trong khi những biểu hiện "tự diễn biến", "tự  chuyển hoá" có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống  chính trị và trong xã hội. Không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện  dao động, mất phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về  mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đã  xuất hiện những việc làm và phát ngôn vô nguyên tắc, trái với Cương  lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng ở một số cán bộ, đảng viên.
Chất  lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và xử lý tổ chức đảng và  đảng viên vi phạm chưa cao, chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham  nhũng, lãng phí, tiêu cực trong nội bộ Đảng. Nhiều khuyết điểm, sai  phạm của tổ chức đảng, đảng viên chậm được phát hiện, kiểm tra, xử lý,  hoặc xử lý kéo dài, nên kỷ cương, kỷ luật ở một số nơi chưa nghiêm; chưa  phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống  chính trị và của nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát.
Công  tác dân vận còn nhiều mặt hạn chế. Việc xây dựng, nhất là triển khai  thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận còn chưa  kịp thời, kém hiệu quả; chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn  biến, thay đổi cơ cấu xã hội, thành phần dân cư, tâm tư, nguyện vọng của  các tầng lớp nhân dân,... để có chủ trương, chính sách và biện pháp phù  hợp.
Nhiều cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp chưa  thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, thực hiện công tác  phòng, chống tham nhũng, lãng phí; chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp  của cả hệ thống chính trị, của nhân dân trong phòng, chống tham nhũng,  lãng phí. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt mục tiêu,  yêu cầu. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện  ngày càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp,  nhiều ngành, làm cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc  trong dư luận, là thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của  Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe doạ sự tồn vong của chế độ.
Đổi  mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và  các tổ chức chính trị - xã hội còn chậm, nhất là việc cụ thể hoá phương  thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh (bổ sung, phát  triển năm 2011); phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có  những nội dung còn lúng túng. Chưa xác định rõ nội dung và phương thức  cầm quyền. Chưa thật sự phát huy vai trò của các tổ chức đảng, đảng  viên, cấp uỷ viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc  và các tổ chức chính trị - xã hội; một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa  gương mẫu trước nhân dân. Chưa khắc phục được tình trạng ban hành nhiều  nghị quyết; có một số nội dung thiếu tính khả thi, chưa tính kỹ nguồn  lực và điều kiện thực hiện. Chưa thật tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ  chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị  quyết; một số nghị quyết chậm đi vào cuộc sống. Còn có biểu hiện quan  liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Tình trạng nói  không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít chậm được khắc phục.
Những  hạn chế, khuyết điểm trên đây làm cho Đảng ta chưa thật sự trong sạch,  vững mạnh, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với  Đảng, Nhà nước và chế độ. 
Nguyên nhân của những hạn  chế, khuyết điểm là do xây dựng Đảng cầm quyền trong điều kiện phát  triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà  nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế là vấn đề mới và  khó, phải vừa làm, vừa tìm tòi, tổng kết rút kinh nghiệm để đổi mới,  hoàn thiện. Chậm đổi mới tư duy về công tác xây dựng Đảng trong điều  kiện mới. Nhận thức chưa đầy đủ và sâu sắc, có mặt chưa rõ, chưa thống  nhất một số vấn đề quan trọng ở tầm quan điểm, chủ trương. Chưa thật sự  phát huy dân chủ trong Đảng, phát huy vai trò giám sát, tham gia của  nhân dân vào công tác xây dựng Đảng. Việc tổ chức thực hiện nghị quyết,  chủ trương về xây dựng Đảng chưa nghiêm, còn thiếu các biện pháp cụ thể,  khả thi. Nhiều cấp uỷ đảng và bí thư cấp uỷ chưa đầu tư đúng mức thời  gian, công sức cho công tác xây dựng Đảng. Lãnh đạo, chỉ đạo, kiện toàn  tổ chức, đổi mới công tác cán bộ thiếu đồng bộ, kiên quyết, hiệu quả  thấp.
2 - Phương hướng, nhiệm vụ
Đẩy  mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì  tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI. Các cấp uỷ, tổ chức  đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản  lý các cấp từ Trung ương đến cơ sở nghiêm túc, tự giác và có kế hoạch,  biện pháp phù hợp để khắc phục, sửa chữa những yếu kém, khuyết điểm. 
Xây dựng Đảng về chính trị
Kiên  định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và  phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập  dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới. Nâng cao bản  lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của  mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt  các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Giữ vững bản chất  giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ,  đảng viên.
Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc  trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và  bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; bản lĩnh chính trị  của Đảng, của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên. 
Nâng  cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật  khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển.
Hoàn  thiện cơ chế, quy chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc  tự phê bình, phê bình, chất vấn trong các kỳ họp của Ban Chấp hành  Trung ương, cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ các cấp. Xây dựng và tổ chức  thực hiện có hiệu quả cơ chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây  dựng Đảng.
Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận
Tiếp  tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu,  tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng; đẩy mạnh tuyên truyền,  học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường  lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng đối  tượng theo hướng cụ thể, thiết thực, hiệu quả.
Đổi  mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối  sống cho cán bộ, đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy  thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi  những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá". Tăng cường đấu tranh  làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động "diễn biến hoà bình" của các thế lực  thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên  tạc, sai trái, thù địch.
Tiếp tục đổi mới tư duy lý  luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm  về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,  đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các  luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ  trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đổi mới mô hình tổ  chức, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động  của cơ quan nghiên cứu lý luận của Đảng; đầu tư thích đáng cho việc xây  dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận, nhất là những chuyên gia đầu  ngành; nâng cao chất lượng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, đáp  ứng yêu cầu mới.
Đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý  luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng. Thực hiện nền nếp việc bồi  dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là  cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương. Tiếp tục  đổi mới hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo  hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng  đối tượng.
Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng
Đưa  việc thường xuyên giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức thành một nội  dung quan trọng trong mục tiêu xây dựng Đảng : "Xây dựng Đảng trong  sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức".
Tiếp  tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ  Chí Minh; coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp  chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị, gắn  với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những  biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Kiên quyết đấu  tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống  cơ hội, thực dụng, bè phái, "lợi ích nhóm", nói không đi đôi với làm.
Xây  dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong  rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối  công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người  đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám  sát, kiểm soát của tổ chức đảng, giám sát và phản biện xã hội của Mặt  trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân về phẩm  chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị
Tiếp  tục đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn,  nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Đổi mới, kiện  toàn tổ chức bộ máy phải gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng  cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; xác định rõ quan hệ giữa tập  thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và  đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ  chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ  cương. Nghiên cứu thực hiện thí điểm hợp nhất một số cơ quan Đảng và Nhà  nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ.
Thực hiện  chủ trương quản lý biên chế thống nhất trong toàn bộ hệ thống chính trị.  Tinh giản tổ chức, bộ máy gắn với tiếp tục phân định rõ chức năng,  nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các tổ chức; thực hiện kiêm nhiệm  một số chức danh và tinh giản biên chế trong toàn hệ thống chính trị. Cơ  bản thực hiện mô hình bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch Hội đồng nhân  dân các cấp. Sớm tổng kết mô hình bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch  Uỷ ban nhân dân cấp xã, cấp huyện ở những nơi có đủ điều kiện. Điều  chỉnh chức năng, nhiệm vụ Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp phù  hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ mới. Trên cơ sở đó,  tinh giản số cán bộ được hưởng lương và phụ cấp ở cơ sở.
Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên
Tập  trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ  sở đảng, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp, tạo chuyển biến về  chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, nhất là tổ  chức đảng trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các  thành phần kinh tế. Kiện toàn tổ chức, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của  Đảng ở cơ sở. Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu,  gần dân, sát dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có phẩm chất đạo  đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ,  vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý  tưởng của Đảng. Tiếp tục đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát  triển, sàng lọc đảng viên, bảo đảm chất lượng; kiên quyết đưa ra khỏi  Đảng những người vi phạm nghiêm trọng Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà  nước. Tổng kết việc thực hiện Quy định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng  về đảng viên làm kinh tế tư nhân và việc thí điểm kết nạp những người  là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng.
Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ
Tiếp  tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp  hoá, hiện đại hoá đất nước. Thể chế hoá, cụ thể hoá các nguyên tắc về :  quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp  và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ; quan hệ giữa  tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa đức và tài; giữa kế thừa và phát triển; giữa  sự quản lý thống nhất của Đảng với phát huy đầy đủ trách nhiệm của các  cơ quan trong hệ thống chính trị; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân  và tập thể; giữa phân cấp, phân quyền và kiểm tra, giám sát, kiểm soát  để thực hiện thống nhất, đồng bộ trong Đảng và hệ thống chính trị. Quán  triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công  tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách  nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống  chính trị về công tác cán bộ. Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy  định, quy chế, cơ chế trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất,  đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp; trong đó có  quy chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để có cơ  sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy  tuổi, chạy bằng cấp,... Tăng tỉ lệ cán bộ lãnh đạo, cấp uỷ là người dân  tộc thiểu số, cán bộ nữ, cán bộ trẻ. Đổi mới bầu cử trong Đảng, phương  thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ,... để lựa chọn những người có bản lĩnh  chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám  làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người  đứng đầu. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp  chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế,  chính sách phát hiện, thu hút, sử dụng nhân tài.
Tăng  cường trách nhiệm của cấp uỷ, nhất là cấp uỷ cơ sở trong công tác bảo  vệ chính trị nội bộ. Xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của công tác bảo vệ  chính trị nội bộ trong giai đoạn hiện nay là bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ  Đảng; bảo vệ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; bảo vệ Hiến pháp  và pháp luật; bảo vệ cán bộ, đảng viên về mặt chính trị. Gắn công tác  bảo vệ chính trị nội bộ với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Kiên  quyết đấu tranh, ngăn chặn những hiện tượng cục bộ, bè phái, "lợi ích  nhóm", gây mất đoàn kết trong Đảng. Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên  phát ngôn, tuyên truyền, tán phát tài liệu trái Cương lĩnh, Điều lệ  Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của  Nhà nước. Đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, hoạt động "diễn biến hoà  bình" của các thế lực thù địch.
Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
Nâng  cao nhận thức của các cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước  hết là người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng về công tác kiểm tra, giám  sát, để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ,  quyền hạn và trách nhiệm trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật  đảng. Tập trung chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng để  nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ  luật đảng.
Đổi mới, tăng cường, nâng cao hiệu lực,  hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của các cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ  ban kiểm tra các cấp và chi bộ; xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ  chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị  quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,  những hành vi dung túng, bao che cho khuyết điểm, vi phạm của tổ chức  đảng và đảng viên, công khai kết quả xử lý. Chú trọng kiểm tra, giám sát  người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ  quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện chức trách,  nhiệm vụ, quyền hạn được giao và việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối  sống, không để người thân trong gia đình lợi dụng chức vụ, quyền hạn để  trục lợi. Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các ban cán sự đảng,  đảng đoàn, các tổ chức đảng ở các cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh tế  và các lĩnh vực dễ xảy ra sai phạm. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, phương  pháp, quy trình kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật và giải quyết khiếu  nại trong Đảng; hoàn thiện cơ chế và nâng cao chất lượng phối hợp thực  hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng giữa uỷ ban kiểm  tra với các tổ chức đảng và cơ quan liên quan.
Nghiên  cứu việc tăng thẩm quyền kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng cho uỷ ban  kiểm tra các cấp. Kiện toàn uỷ ban kiểm tra, tổ chức bộ máy và cán bộ cơ  quan uỷ ban kiểm tra tương xứng, ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ,  quyền hạn được giao. Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng  cán bộ kiểm tra các cấp. Có chế độ, chính sách hợp lý đối với cán bộ  kiểm tra.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân
Củng  cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại  đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân;  tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và  chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân  dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đổi  mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong điều kiện  phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội  nhập quốc tế. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng  dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân.  Giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, những kiến nghị chính  đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo của công dân.
Kịp  thời thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp  luật phù hợp với thực tiễn và đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng  của nhân dân. Tiếp tục thể chế hoá, cụ thể hoá mối quan hệ "Đảng lãnh  đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ", nhất là nội dung nhân dân làm  chủ và phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát".
Tăng  cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan nhà nước. Thực hiện  tốt Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị. Quan tâm đào tạo,  bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác dân vận.
Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Xác  định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ khó khăn,  phức tạp, lâu dài; là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, trước hết là  người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, và của toàn bộ hệ thống chính trị.  Kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí với yêu cầu chủ động phòng  ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm các hành vi  tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham  nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí.
Đẩy  mạnh việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của  Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để bảo đảm công tác phòng,  chống tham nhũng, lãng phí có hiệu lực, hiệu quả, nhất là trong các lĩnh  vực có nguy cơ tham nhũng cao như : quản lý và sử dụng đất đai, khai  thác tài nguyên, khóang sản; thu, chi ngân sách, mua sắm công, tài  chính, ngân hàng, thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản; công tác  cán bộ; quản lý doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà  nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; giáo dục, đào tạo và y  tế. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận  thức, ý thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cán bộ, đảng  viên, công chức, viên chức và nhân dân về công tác phòng, chống tham  nhũng, lãng phí, tạo sự thống nhất, tự giác, quyết tâm cao trong hành  động. Kiên quyết xử lý và kịp thời thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản  lý tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm minh trách nhiệm của người đứng  đầu khi để xảy ra tham nhũng, lãng phí trong tổ chức, cơ quan, đơn vị,  địa phương mình trực tiếp quản lý, các cán bộ, đảng viên, công chức vi  phạm về kê khai và minh bạch tài sản, thu nhập; kiên quyết thu hồi tiền,  tài sản bị tham nhũng. Đồng thời, đẩy mạnh cải cách chính sách tiền  lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán bộ, đảng  viên, công chức để góp phần phòng, chống tham nhũng. Kiên quyết, kiên  trì xây dựng cơ chế phòng ngừa để không thể tham nhũng; cơ chế răn đe,  trừng trị để không dám tham nhũng.
Tiếp tục kiện toàn  tổ chức bộ máy các cơ quan có chức năng đấu tranh phòng, chống tham  nhũng, lãng phí. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm  toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án để nâng cao hiệu lực, hiệu  quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Xây dựng cơ chế phòng  ngừa, ngăn chặn quan hệ "lợi ích nhóm"; chống đặc quyền, đặc lợi, khắc  phục "tư duy nhiệm kỳ"; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp.  Phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể  nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng và của nhân dân trong đấu  tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng
Tiếp  tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định  rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều  kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy  nhất cầm quyền; các nguy cơ cần lưu ý phòng ngừa đối với đảng cầm quyền.
Nâng  cao hiệu quả thực hiện và tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo  của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước. Đảng  lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế  hoá các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp  luật, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng  lực, lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách  và hệ thống pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng  lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp; các tổ chức của Đảng  và đảng viên phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Đổi mới  phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức  chính trị - xã hội, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ  chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Phát huy mạnh mẽ vai  trò, hiệu lực của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng  hệ thống chính trị hoạt động năng động, có hiệu lực và hiệu quả.
Tiếp  tục cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong  Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội  (bổ sung, phát triển năm 2011) ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy  định, quy trình cụ thể. Quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự  giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết  định của mình; về quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu và mối quan  hệ giữa tập thể cấp uỷ, tổ chức đảng với người đứng đầu, bảo đảm thực  hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách,  đi đôi với phát huy vai trò, trách nhiệm, tính chủ động của người đứng  đầu và cơ chế xử lý đối với người đứng đầu khi vi phạm. Quy định rõ hơn  thẩm quyền và trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,  Ban Bí thư, cấp uỷ và ban thường vụ cấp uỷ các cấp. Đẩy mạnh việc phân  cấp, phân quyền; có cơ chế để các địa phương phát huy quyền chủ động,  sáng tạo, gắn với đề cao trách nhiệm, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo,  quản lý thống nhất của Trung ương.
Coi trọng xây dựng  văn hoá trong các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, trong hệ thống chính  trị mà nội dung quan trọng là tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư  tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tiếp tục đổi mới phương thức  lãnh đạo trong hệ thống tổ chức của Đảng; đổi mới phương pháp, phong  cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương  tới cơ sở, xây dựng phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, gần  dân, trọng dân, vì dân, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm.
Tiếp  tục đổi mới, nâng cao chất lượng việc xây dựng, ban hành nghị quyết của  Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước. Nghị quyết phải thiết thực,  ngắn gọn, khả thi; phải tính đến cân đối các nguồn lực và điều kiện bảo  đảm triển khai thực hiện có hiệu quả; phân công rõ trách nhiệm tổ chức,  cá nhân, thời hạn hoàn thành các nhiệm vụ, giải pháp được ghi trong nghị  quyết. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, dứt điểm việc cụ thể  hoá, thể chế hoá, tổ chức thực hiện nghị quyết; thường xuyên kiểm tra,  đôn đốc; đổi mới cách thức quán triệt, sơ kết, tổng kết việc thực hiện  nghị quyết, chỉ thị của Đảng, bảo đảm tính hiệu quả. Đẩy mạnh cải cách  hành chính trong Đảng, khắc phục những thủ tục rườm rà, bất hợp lý, giảm  bớt giấy tờ, giảm mạnh hội họp.
SÁU NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM TRONG NHIỆM KỲ ĐẠI HỘI XII
Trong  nhiệm kỳ Đại hội XII, cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi  mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước nhanh,  bền vững; đặc biệt chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có  kết quả sáu nhiệm vụ trọng tâm sau :
1 - Tăng cường  xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng  chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"  trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ  cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
2  - Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt  động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng,  lãng phí, quan liêu.
3 - Tập trung thực hiện các giải  pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động. Thực hiện có  hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường  định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là  nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng  bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình  tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng  công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng  nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp  nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn  nợ công.
4 - Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,  thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà  bình, ổn định để phát triển đất nước. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các  quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu  quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và  uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
5 - Thu hút,  phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân; chăm lo  nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và phát huy quyền làm chủ của nhân  dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
6 -  Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập  trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và  năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh. Giải quyết tốt  những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội; bảo đảm  an sinh, phúc lợi xã hội. 
***
Trong  nhiệm kỳ qua, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt  được những thành quả quan trọng. Tình hình thế giới đang thay đổi nhanh  chóng, tạo ra cho nước ta thời cơ lớn, đồng thời cũng đặt ra nhiều khó  khăn, thách thức. Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định quyết tâm của  toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn,  thách thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu  lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy  mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh  và bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả "dân giàu, nước mạnh,  dân chủ, công bằng, văn minh", vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
-----
GỢI  Ý MỘT SỐ NỘI DUNG TRONG DỰ THẢO BÁO CÁO CHÍNH TRỊ ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG  CẦN TẬP TRUNG THẢO LUẬN TẠI ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ CẤP HUYỆN, CẤP TỈNH VÀ TƯƠNG  ĐƯƠNG
1 - Về đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI (2011 - 2015) và nhìn lại 30 năm đổi mới (1986 - 2016)
Đề nghị cho ý kiến về:
-  Đánh giá tổng quát 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, những ưu điểm  và hạn chế, khuyết điểm; một số kinh nghiệm; nhất là nhận định : "5 năm  qua đã đạt được những thành quả quan trọng".
- Đánh  giá tổng quát 30 năm đổi mới; 5 bài học lớn; nhất là nhận định : "nhìn  tổng thể qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to  lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo  vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức  tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để  đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững".
2 - Về mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm (2016 - 2020)
Đề nghị cho ý kiến về:
- Dự báo tình hình thế giới và đất nước những năm sắp tới.
-  Mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới : Tăng cường xây dựng Đảng trong  sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu  của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Đẩy mạnh toàn diện,  đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, xây dựng  nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng  hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo vệ  vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,  bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà  bình, ổn định để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của  Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
- 12 nhiệm vụ tổng quát trong 5 năm tới.
- Các chỉ tiêu quan trọng 5 năm tới về kinh tế, xã hội, môi trường.
3 - Về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Đề nghị cho ý kiến về:
-  Định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế : Mô hình tăng trưởng  trong thời gian tới là kết hợp hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều  sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và  sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, tăng cường ứng  dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, phát huy lợi thế so sánh, và chủ động  hội nhập quốc tế, hướng tới phát triển nhanh và bền vững; giải quyết  hài hoà giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài; giữa tăng trưởng kinh tế và  phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thân thiện  với môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. 
-  Định hướng cơ cấu lại nền kinh tế: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu  lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế và các ngành, các lĩnh vực gắn với đổi  mới mô hình tăng trưởng, tập trung vào các lĩnh vực quan trọng : cơ cấu  lại đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài  chính với trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài  chính, từng bước cơ cấu lại ngân sách nhà nước; cơ cấu lại và giải quyết  có kết quả vấn đề nợ xấu, bảo đảm an toàn nợ công; cơ cấu lại doanh  nghiệp nhà nước với trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; cơ  cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gắn với phát  triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
-  Phương hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để sớm đưa nước ta  cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại (nội dung công  nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai đoạn tới; phương hướng phát triển  công nghiệp; phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với xây  dựng nông thôn mới; phát triển khu vực dịch vụ; phát triển kinh tế biển;  phát triển kinh tế vùng, liên vùng; phát triển đô thị; xây dựng hệ  thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội).
4 - Về hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đề nghị cho ý kiến về:
-  Phương hướng, mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã  hội chủ nghĩa ở nước ta (Tiếp tục thống nhất nhận thức về nền kinh tế  thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa); mục tiêu đến năm 2020.
-  Phương hướng tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các  thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp (Phương hướng và chính  sách phát triển doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế sở hữu  hỗn hợp, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp của nước  ngoài).
- Phương hướng phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường.
- Phương hướng đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
-  Phương hướng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả  quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của  nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
5 - Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
Đề nghị cho ý kiến về:
-  Phương hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo gắn với phát  triển nguồn nhân lực (Phấn đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn  bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo, làm cho giáo dục  và đào tạo thực sự là quốc sách hàng đầu, đáp ứng ngày càng tốt hơn  công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân).
- Những giải pháp thực hiện.
6 - Về phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ
Đề nghị cho ý kiến về:
-  Phương hướng phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ (Phát triển  mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là  quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng  sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng,  hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường; bảo đảm  quốc phòng, an ninh).
- Những giải pháp thực hiện.
7 - Về phát triển văn hoá, xây dựng con người
Đề nghị cho ý kiến về:
-  Phương hướng phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam phát triển  toàn diện (Phát triển văn hoá để thực sự là nền tảng tinh thần của xã  hội; xây dựng con người Việt Nam về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng  lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý  thức tuân thủ pháp luật); và những giải pháp thực hiện.
-  Phương hướng xây dựng môi trường văn hoá, đời sống văn hoá lành mạnh,  phát huy các giá trị văn hoá (trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa  phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh  nghiệp và mỗi gia đình); và những giải pháp thực hiện.
8 - Về quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
Đề nghị cho ý kiến về:
- Quan điểm về quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
-  Các chính sách xã hội cần chú trọng thực hiện tốt để bảo đảm tiến bộ và  công bằng xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội trong từng bước và  từng chính sách phát triển (giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm và  thu nhập cho người lao động; chăm sóc sức khoẻ nhân dân, công tác dân số  - kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em; xây  dựng gia đình hạnh phúc).
9 - Về tăng cường quản lý tài nguyên; bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu
Đề nghị cho ý kiến về:
- Phương hướng và giải pháp quản lý tài nguyên.
- Phương hướng và giải pháp về bảo vệ môi trường.
- Phương hướng và giải pháp phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
10 - Về tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới
Đề nghị cho ý kiến về:
-  Mục tiêu và nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh (Phát huy mạnh mẽ sức mạnh  tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị để bảo vệ vững  chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo  vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc  đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ lợi ích quốc  gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hoá dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình,  ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội).
-  Về giải pháp tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc  Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới (Trong đó, chú trọng tăng  cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn  dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc; kết hợp chặt chẽ kinh tế,  văn hoá, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh  tế, văn hoá, xã hội; kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với đối ngoại;  xây dựng "thế trận lòng dân"; xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân  dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện  đại hoá một số quân chủng, binh chủng, lực lượng quan trọng; tăng cường  nguồn lực cho quốc phòng, an ninh,...).
11 - Về nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
Đề  nghị cho ý kiến về quan điểm, mục tiêu, chính sách đối ngoại và hội  nhập quốc tế (Chú trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền  thống với các nước láng giềng, thúc đẩy quan hệ với các đối tác lớn, đối  tác quan trọng. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước  ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh. Mở rộng, làm sâu sắc hơn và nâng cao  hiệu quả quan hệ đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và ngoại giao  nhân dân).
12 - Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Đề nghị cho ý kiến về:
- Những định hướng, giải pháp tăng cường, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
-  Chính sách đối với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí  thức, đội ngũ doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao  tuổi, dân tộc, tôn giáo, đồng bào ta định cư ở nước ngoài.
13 - Về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
Đề  nghị cho ý kiến về quan điểm, định hướng, giải pháp tiếp tục phát huy  dân chủ gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm thực hiện quyền  làm chủ của nhân dân (Bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân  dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà  nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân  dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Bảo đảm để nhân dân tham gia quá  trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân  dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận và giám sát việc  thực hiện).
14 - Về hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Đề  nghị cho ý kiến về phương hướng tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền  xã hội chủ nghĩa Việt Nam (về hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ,  phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà  nước; hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của  bộ máy nhà nước; chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức).
15 - Về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
Đề nghị cho ý kiến về: 
-  Đánh giá tình hình xây dựng Đảng trong 5 năm qua, nhất là tình hình  thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng  Đảng hiện nay" (Quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đạt được  những kết quả bước đầu quan trọng, nhưng chưa đạt kết quả như mong đợi;  công tác xây dựng Đảng đạt được những kết quả quan trọng, nhưng còn  nhiều hạn chế, khuyết điểm).
- Phương hướng xây dựng  Đảng về chính trị, tư tưởng; rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng của  đội ngũ cán bộ, đảng viên; đấu tranh phòng, chống sự suy thoái về tư  tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến",  "tự chuyển hoá" trong nội bộ; đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy; tiếp  tục đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng.
Về sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XII
Đề nghị cho ý kiến về nội dung sáu nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung thực hiện tốt trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng.