Công nghệ sản xuất bột chè hòa tan từ lá chè tươi là hướng đi mới đang được các nước phát triển như Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ… quan tâm và đầu tư phát triển. Tuy nhiên, tại Việt Nam, một nước đứng thứ 4 thế giới về diện tích trồng chè thì công nghệ này còn khá lạ lẫm và mới bắt đầu manh nha.
											Với mục tiêu tạo ra sản phẩm bột chè hòa  tan từ lá chè tươi có chất lượng cao, đề tài “Nghiên cứu công nghệ sản  xuất bột chè xanh uống liền”, một trong những đề tài tiềm năng được Bộ  Khoa học và Công nghệ đầu tư thực hiện do TS. Nguyễn Thanh Hải, Trường  Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Bộ Giáo dục và Đào tạo làm chủ nhiệm, được  thực hiên trong năm 2012 với kinh phí khoảng 770 triệu đồng đã đáp ứng  được yêu cầu trên.
Giải quyết vấn đề về nguyên liệu
Theo báo cáo của Tổ chức lương thực thế  giới (Fao) năm 2011, Việt Nam đứng thứ 4 về diện tích trồng chè với  khoảng hơn 6 triệu lao động sống dựa vào ngành công - nông nghiệp chế  biến chè. Tuy nhiên,  giá trị thành phẩm chè của Việt Nam vẫn thấp, chỉ  bằng 70-75% so với sản phẩm cùng loại trên thị trường thế giới.
Với việc thực hiện đề tài: “Nghiên cứu  công nghệ sản xuất bột chè xanh uống liền” TS. Nguyễn Thanh Hải cho biết  đề tài sẽ tận thu được lá chè búp kém chất lượng nhằm tạo ra dịch chè  hoặc bột chè hòa tan trực tiếp từ lá chè tươi làm nguyên liệu cho công  nghiệp chế biến như: phẩm mầu, nước chè đóng chai, chè sữa, cà phê, mỹ  phẩm, kem đánh răng. Do việc sản xuất dịch chè tươi không đòi hỏi chè có  chất lượng cao nên với công nghệ này sẽ giải quyết được vấn đề nhức  nhối của người nông dân không bán được chè do kém chất lượng của nhiều  vùng nguyên liệu chè nước ta hiện nay.
Đặc biệt tại Việt Nam, việc nghiên cứu  sản xuất bột chè hòa tan từ lá chè tươi còn rất hạn chế nên công nghệ  này sẽ tạo ra một sản phẩm mới mang thương hiệu Việt, góp phần đa dạng  hóa sản phẩm chè chế biến trên thị trường, tránh việc phải nhập bột chè  gây thất thoát ngoại tệ trong khi chè Việt Nam đang dư thừa, khó tiêu  thụ.
TS. Hải cũng chia sẻ thêm, việc nghiên  cứu thành công công nghệ chế biến bột chè hòa tan từ lá chè tươi trong  phòng thí nghiệm, còn là cơ sở để Việt Nam tiến tới làm chủ công nghệ  chế biến chè bột hòa tan quy mô công nghiệp và chuyển giao công nghệ cho  các cơ sở chế biến chè trong nước. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng  khắc phục được phần nào tình trạng các công ty nước ngoài sử dụng công  nghệ của họ để chế biến từ nguyên liệu chè Việt Nam thành các sản phẩm  có giá trị, bán lại chính cho người dân Việt Nam và xuất khẩu thu lợi  nhuận về họ.
Lợi ích kinh tế lớn
Theo TS Hải, đề tài do anh làm chủ nhiệm  được triển khai theo 3 hướng gồm: nghiên cứu phát triển bột chè xanh  hòa tan pha với nước sôi làm đồ uống trực tiếp; Làm nguyên liệu phụ gia  cho nhiều sản phẩm, mỹ phẩm khác; Nghiên cứu tạo ra sản phẩm giàu  polyphenol dùng trong bảo quản nông sản thực phẩm.  Ngoài ra, việc tận  thu lá chè  già hoặc kém chất lượng để sản xuất sản phẩm bột chè hòa tan  hoặc dịch chè với giá thành rẻ, phù hợp với nhu cầu nguồn nguyên liệu  (bột chè hòa tan, dịch chè) trong nước và xuất khẩu, đồng thời phụ phẩm  sau chế biến có thể chế biến thành phân bón cho cây chè, góp phần nâng  cao giá trị kinh tế.
Kết quả đề tài đã xây dựng thành công  quy trình công nghệ sản xuất bột chè hòa tan từ lá chè già và búp chè  non trong phòng thí nghiệm. Bột chè sản xuất ra cao hơn hẳn so với sản  phẩm tương đương của một số nước trên thế giới, đảm bảo các chỉ tiêu an  toàn vệ sinh thực phẩm. Giá thành cho 1kg bột chè hòa tan sản xuất theo  quy trình công nghệ trên chỉ bằng 1/3 giá thành 1kg bột chè hòa tan bán  tại thị trường Trung Quôc có cùng chất lượng.
“Đề tài tiềm năng đã tạo điều kiện  nghiên cứu cho các nhà khoa học trẻ thực hiện ý tưởng mới. Mặc dù Đề án  mới thí điểm lần đầu nhưng đây là ý tưởng mới đầy sáng tạo của Bộ  KH&CN. Không những thế từ đề tài tiềm năng, nhiều nghiên cứu mang  tính chất khai phá, bước đầu đã được thực hiện, nhiều nghiên cứu thành  công đã tạo ra triển vọng lớn.
Tuy nhiên, để tạo động lực cho các nhà  khoa học trẻ cần có cơ chế tài chính chính ưu đãi hơn với đề tài tiềm  năng vì phần lớn chủ nhiệm đề tài là các nhà khoa học trẻ, có nhiệt  huyết nghiên cứu dựa trên những ý tưởng táo bạo, mới mẻ, do vậy không ít  các đề tài gặp khó khăn, thậm chí không thành công khi triển khai thực  hiện”, TS. Hải bày tỏ.